Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 63/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 63/2022/HSST NGÀY 04/03/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 65/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Thị N Tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 18/11/1962 tại tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Số nhà X, tổ dân phố Y, phường N, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 10/10 PT; Con ông: Ngô Văn B (đã chết) và con bà: Phạm Thị P (đã chết); Năm 1983 chung sống như vợ chồng với ông Nguyễn Văn C và có 01 con sinh năm 1985; Tiền án: 01 tiền án về tội Cướp tài sản tại bản án số 01/HSST ngày 20/10/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên (chưa được xóa án tích), tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 1985 bị UBND tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên) ra Quyết định đưa đi tập trung cải tạo với thời hạn 03 năm (bị cáo đã chấp hành xong quyết định này). Bị tạm giữ từ ngày 05/11/2021 sau đó bị tạm giam cho đến nay. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1985. Nơi cư trú: Thôn V, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 05/11/2021, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Điện Biên Phủ làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố A, phường M, thành phố Đ, phát hiện Ngô Thị N đang điều khiển xe máy điện hiệu ESPERO không có biển kiểm soát có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra, N tự giác giao nộp một gói được gói bằng giấy bạc màu vàng, tiếp đến là lớp nilon màu trắng bên trong có chứa các cục chất bột màu trắng đục đang cầm trong lòng bàn tay trái. N khai nhận đó là Heroine, N được người khác thuê đi lấy hộ để hưởng tiền công.

Quá trình điều tra Ngô Thị N khai nhận: Số ma túy bị thu giữ là do trước đó khoảng 11 giờ cùng ngày khi bị cáo đang ở nhà một mình thì Nguyễn Văn Đ (có địa chỉ nêu trên) đến gặp và nói với bị cáo: Chị ra cầu A1 gặp một người tên là H, mặc quần áo màu đen lấy gói ma túy của em mang về cho em, em trả chị 500.000 đồng. Bị cáo đồng ý, còn Đ rời đi. Khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày bị cáo một mình điều khiển xe máy điện đến khu vực hàng cây hoa ban cách cầu A1 khoảng 300m thuộc tổ dân phố B, phường Th, thành phố Đ gặp người phụ nữ như Đ mô tả. Theo chỉ dẫn của người phụ nữ, bị cáo lấy 1 vỏ bao thuốc lá màu vàng, mở ra xem thấy bên trong có chứa 1 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng, bị cáo không mở tiếp để kiểm tra nhưng biết đó là gói ma túy của Đ. Bị cáo vứt vỏ bao thuốc lá và cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái của mình rồi điều khiển xe đi về, khi đến khu vực tổ dân phố A, phường M thì bị phát hiện.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng, tiếp đến là lớp nilon màu trắng bên trong có chứa các cục chất bột màu trắng đục; xe máy điện nhãn hiệu ESPERO kèm chìa khóa của xe.

Tại bản kết luận giám định số 1238/GĐ-PC09 ngày 12/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Khối lượng vật chứng được ký hiệu M là 1,06 gam. Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định M: 0,99 gam có biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định kèm theo.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKSTPĐBP ngày 26/01/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Ngô Thị N về tội: Vận chuyển trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250/Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 /BLHS: Xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106/Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,99 gam Heroine là vật chứng còn lại sau giám định.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ. Bị cáo không bào chữa gì cho hành vi của mình.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định chất ma túy niêm phong lại vật chứng, Kết luận giám định...Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 12 giờ ngày 05/11/2021 tại khu vực Tổ dân phố A, phường M, thành phố Đ, Ngô Thị N đã có hành vi vận chuyển trái phép 1,06 gam Heroine nhằm mục đích hưởng tiền công mà không nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250/BLHS.

Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đa truy tố đôi vơi bị cáo là có căn cứ pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

[2]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án về tội Cướp tài sản tại bản án 01/HSST ngày 20/10/2004 Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã xử phạt bị cáo 05 năm tù, buộc bị cáo chịu án phí và phải bồi thường dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay bị cáo chưa bồi thường cho người bị hại nên chưa được xóa án tích. Nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên phải chịu tiết tăng nặng là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

Về nhân thân: Năm 1985 bị UBND tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên) ra Quyết định đưa đi tập trung cải tạo với thời hạn 03 năm, bị cáo đã chấp hành xong bị cáo vi phạm pháp luật, nhưng do thiếu ý thức chấp hành pháp luật, muốn có tiền một cách nhanh nhất nên bị cáo vẫn phạm tội.

Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo được học tập, rèn luyện trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 250/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.

[4]. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:

Đối với 1,06 gam ma túy thu giữ của bị cáo, sau khi gửi toàn bộ để giám định còn lại 0,99 gam - vật chứng còn lại của vụ án, là vật Nhà nước cấm Vận chuyển; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh giấy bạc màu vàng là vật dùng gói ma túy không có giá trị, không sử dụng được nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Đối với chiếc xe máy điện hiệu ESPERO quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bà Tô Thị Ng. Bị cáo tự ý lấy xe đi, bà Ng không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Việc trả lại tài sản là đúng quy định nên HĐXX không xem xét giải quyết. Do quyền lợi của bà Ng đã được giải quyết nên cũng không triệu tập bà Ng để xét hỏi tại phiên tòa.

[5]. Các vấn đề khác:

Đối với Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1985, cư trú tại Thôn V, xã Đ, huyện K, tỉnh Hưng Yên, quá trình điều tra Đ không thừa nhận thuê bị cáo vận chuyển ma túy, ngoài lời khai của bị cáo không có căn cứ để chứng minh, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với người phụ nữ tên H, quá trình điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[6]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo, người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đều hợp pháp.

[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 250; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Ngô Thị N phạm tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Ngô Thị N 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (05/11/2021).

2. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,99 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh giấy bạc màu vàng. (Vật chứng đã được niêm phong và được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/01/2022).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (04/3/2022). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1756
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 63/2022/HSST

Số hiệu:63/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về