Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 570/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 570/2022/HS-PT NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 375/2022/TLPT-HS ngày 14 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Trần Hoàng H và bị cáo Lầu Vĩnh B do có kháng cáo của bị cáo Trần Hoàng H và bị cáo Lầu Vĩnh B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2022/HS-ST ngày 04/5/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị:

1. Lầu Vĩnh B; sinh ngày 24/8/1954; tại thành phố Hải Phòng; hộ khẩu thường trú: 142E/4B đường C, Phường 2, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 3/12; con ông Lầu A M(đã chết) và bà Lý Tài M1 (đã chết); có vợ và 02 con, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/01/2019; có mặt.

Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Lầu Vĩnh B: Ông Trịnh Bá T– Luật sư Văn phòng Luật sư Trịnh Bá T, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

2. Trần Hoàng H; sinh ngày 02/02/1998; tại tỉnh Vĩnh Long; hộ khẩu thường trú: Ấp P1, xã L, huyện L1, tỉnh Vĩnh Long; chỗ ở: 212B/D69 đường N, phường N1, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Trần Thanh T1 và bà Phạm Thị Mỹ P2; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 31/01/2019; có mặt.

Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Lầu Vĩnh B: Ông Trịnh Bá T– Luật sư Văn phòng Luật sư Trịnh Bá T, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 30/01/2019, tại trước nhà số 801/67, đường X1, Phường 26, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang Lầu Vĩnh B có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Thu giữ tại móc treo đồ phía bên trái xe gắn máy biển số 59E1-213.73 do B đang điều khiển, 01 túi vải màu xanh bên trong có 01 gói nylon màu vàng in chữ “GUANYIN WANG”, bên trong có 01 gói nylon in chữ “OK” chứa chất tinh thể, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 974,24g, loại Methamphetamine.

Lúc 20 giờ ngày 31/01/2019, tại Công an Phường 24, quận B1, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B1 bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Thị Thanh L2 về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Khám xét khẩn cấp chỗ ở của L2 tại nhà số 45/6/8 đường số 9, phường H1, thành phố T2, Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện thu giữ:

+ 11 gói nylon màu vàng - nâu có in chữ “Cà phê 100g”, bên trong chứa tinh thể, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 649,52 gam, loại Methamphetamine;

+ 08 gói nylon chứa tinh thể, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 29,1408 gam, loại Methamphetamine;

+ 01 túi xách màu nâu, bên trong có 01 gói nylon đựng 20 viên nén hình tam giác màu xanh dương có in chữ “EA7”, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 8,162 gam, loại MDMA;

+ 01 cân điện tử; 20 gói nylon không chứa gì và 06 tờ giấy;

+ 20 gói nylon màu vàng - nâu có in chữ “Cà phê 100g” và 10 gói nylon màu vàng - nâu có in chữ “Cà phê 500g”, không chứa gì;

+ 01 gói nylon màu vàng in chữ “GUANYINWANG”, không chứa gì;

+ 01 gói nylon màu trắng có chữ “Ok”, không chứa gì;

+ 01 gói nylon vuốt mép trắng có dán băng keo vàng”, không chứa gì;

+ 01 gói nylon màu xanh có ghi chữ “TIEGUANYIN”, không chứa gì;

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone và số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

- Khám xét khẩn cấp chỗ ở của L2 tại nhà số 45/6/4 đường số 9, phường H1, quận T2, Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện thu giữ:

+ 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 996,14 gam, loại Ketamine;

+ 01 gói nylon màu xanh có ghi chữ “TIEGUANYIN”, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 995,30 gam, loại Ketamine;

+ 04 gói nylon màu vàng xanh có ghi chữ “GUANYINWANG”, bên trong mỗi gói có 01 gói nylon chứa tinh thể, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3997,05 gam, loại Methamphetamine;

+ 02 gói nylon chứa 283 viên nén hình tròn màu đỏ có khắc chữ “WY”, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 29,8302 gam, loại Methamphetamine;

+ 01 gói nylon chứa 112 viên nén màu nâu đỏ có khắc chữ “SUPER”, kết luận giám định có khối lượng 75,7451 gam, không tìm thấy chất ma túy;

+ 06 gói nylon chứa 260 viên nén hình tròn màu vàng có khắc chữ “m100”, kết luận giám định có khối lượng 183,9211 gam, không tìm thấy chất ma túy;

Vào lúc 21 giờ ngày 31/01/2019, tại khu vực đường Vthuộc Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Đội Cảnh sát giao thông tiến hành kiểm tra xe ô tô 51G-900.02 do Nguyễn Thanh S điều khiển, trên xe có Trần Thị Thanh P3, Huỳnh Quốc X và Trần Hoàng H có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên yêu cầu về Công an Phường 19, quận B1 để tiến hành kiểm tra, phát hiện thu giữ:

- 01 hộp giấy hình chữ nhật màu cam trên bề mặt có ghi chữ “HERMES”, bên trong có 01 túi nylon màu đỏ để sau cốp xe của S do Quốc X vừa đưa cho S, gồm:

+ 03 gói nylon màu nâu trên bề mặt có in hình ly cà phê loại 100 gam, mỗi gói bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 316,99 gam, loại Ketamine;

+ 01 gói nylon màu nâu trên bề mặt có in hình ly cà phê loại 500 gam bên trong có 04 ống giấy hình trụ màu đỏ đựng 04 lọ thủy tinh chứa chất lỏng màu đỏ, kết luận giám định là ma túy ở thể lỏng, có thể tích 60ml, loại MDMA, hàm lượng 1,079 gam;

- 01 gói nylon màu nâu trên bề mặt có in hình ly cà phê loại 500 gam, bên trong có:

+ 04 ống giấy hình trụ màu đỏ đựng 04 lọ thủy tinh chứa chất lỏng màu đỏ, kết luận giám định là ma túy ở thể lỏng, có thể tích 60ml, loại MDMA, hàm lượng 1,103 gam;

+ 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 58,6907 gam, loại Ketamine;

+ 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu trắng, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 14,7619 gam, loại Methamphetamine;

+ 01 gói thuốc lá hiệu “555” bên trong gồm có 01 gói nylon chứa tinh thể rắn, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,6638 gam, loại Methamphetamine; 01 gói nylon chứa 06 viên nén hình tròn màu nâu đỏ, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,6116 gam, loại Methamphetamine; 01 gói nylon chứa tinh thể rắn màu hồng, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,8190 gam, loại Methamphetamine.

- Kiểm tra vali màu hồng của Trần Thị Thanh P3 phát hiện 01 bao thuốc lá hiệu “ESSE CHANGE” màu xanh bên trong có 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng chứa tinh thể, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7712 gam, loại Ketamine.

Công an quận B1 tiến hành bắt người phạm tội quả tang Nguyễn Thanh S, Trần Thị Thanh P3 và Huỳnh Quốc X về hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để mua bán. Đồng thời, ngày 01/02/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B1 bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Hoàng H về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

- Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thanh S tại số 733/1/110B, đường N2, xã N3, huyện N4, Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ 01 máy ép nhựa, 09 hũ nhựa màu cam trên bề mặt có ghi chữ “VITAMINE C - 1000”, bên trong không chứa gì.

- Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Thị Thanh P3 và Trần Hoàng H tại phòng 307 căn hộ cho thuê số 189B/A30 đường C1, phường N1, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện thu giữ gồm:

+ 02 chai nhựa bên trong có chứa 2.173 viên nén màu xanh lá có khắc chữ “JURASSIS”, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 934,53 gam, loại MDMA;

+ 02 chai nhựa bên trong có chứa 2.283 viên nén hình chữ nhật màu xám có khắc chữ “LAST LONGER”, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1005,89 gam, loại MDMA;

+ 01 chai nhựa bên trong có chứa 682 viên nén hình đầu lâu màu vàng có khắc chữ “MB”, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 371,89 gam, loại MDMA;

+ 01 chai nhựa bên trong có chứa 904 viên nén màu hồng có khắc chữ “TRUMP”, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 395,09 gam, loại MDMA;

+ 04 gói nylon chứa 395 viên nén màu xanh lá có khắc chữ “JURASSIS”, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 177,9359 gam, loại MDMA.

+ 05 gói nylon chứa 498 viên nén hình chữ nhật màu xanh lá có khắc chữ “LAST LONGER”, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 220,49 gam, loại MDMA;

+ 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, kết luận giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 75,2070 gam, loại Ketamine.

+ 02 cân điện tử; 04 chai nhựa; 50 gói nylon màu nâu có ghi chữ “KLT 500g”; 50 gói nylon màu vàng có ghi chữ “Cà phê 250g”, không chứa gì.

- Khám xét khẩn cấp chỗ ở Trần Thị Thanh P3 và Trần Hoàng H tại số 212B/D93, đường N, phường N1, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, không phát hiện thu giữ đồ vật gì liên quan đến vụ án.

Toàn bộ số vật chứng là ma túy thu giữ đã được giám định, kết quả thể hiện tại Bản kết luận giám định số 530, 531, 537, 538/KLGĐ-H ngày 14/02/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh và 3845/C09B ngày 17/9/2019 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an.

Quá trình điều tra xác định được như sau:

Lầu Vĩnh B chạy xe ôm ở khu vực đường P4, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh, B quen với Lê Hải Y là khách hay thuê B chở, mỗi lần Y đi đâu đều gọi cho B đón và chở đi. Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 30/01/2019, B nhận được điện thoại của Y gọi từ số 0902.713.674 đến số điện thoại của B 0934.819.910 và nói với B đến nhà của L2 tại số 45/6/8 Đường số 9, phường H1, quận T2, Thành phố Hồ Chí Minh để nhận ma túy đem về cho Y. Khi đến nhà của L2, B gọi điện thoại cho L2 nhưng L2 không nghe máy, B đứng đợi khoảng 05 phút thì Hồ Duy Q là con của L2 mở cửa cho B vào nhà và ngồi đợi trên ghế salon, B thấy L2 từ trên lầu đi xuống đưa cho B 01 gói nylon màu vàng in chữ “GUANYIN WANG” và nói với B đem về cho Y. B nhận gói ma túy rồi bỏ vào túi đựng áo mưa màu xanh treo lên móc treo đồ phía bên trái baga xe gắn máy hiệu SYM biển số 59E1-213.73 rồi B điều khiển xe máy đi về đến trước nhà số 801/67 X1, Phường 26, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ số ma túy. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn xác định trước đó vào khoảng cuối tháng 12/2018 và giữa tháng 01/2019 Y lấy tiền bỏ vào trong túi nylon đưa cho B đem đến nhà đưa cho L2 để trả tiền mua ma túy và nhận ma túy đá đem về cho Y, sau khi xong việc Y trả công cho B 01 lần đi lấy ma túy giúp cho Y từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng.

Trần Thị Thanh L2 thông qua bạn bè sử dụng chung ma túy giới thiệu nên L2 biết Nguyễn Thanh S và Trần Thị Thanh P3 là người có nguồn ma túy để bán, L2 đã lấy số điện thoại của S và P3 để mỗi lần cần mua ma túy sử dụng và có khách hỏi mua thì L2 gọi điện thoại cho S đặt mua ma túy đem về bán lại kiếm lời, có lần L2 gọi điện thoại cho S để mua ma túy nhưng S không nghe máy, thì L2 gọi điện thoại cho P3 để đặt mua số lượng ma túy, sau đó thì Huỳnh Trung K là người đem ma túy đến cho L2. Qua tiếp xúc nhiều lần với S và P3 để sử dụng ma túy, L2 biết D (không rõ lai lịch) cũng là người mua bán ma túy và có nguồn ma túy bán rẻ hơn thuốc lắc và ma túy đá của S, nên L2 chuyển qua mua ma túy của D với giá ma túy đá là 300.000.000 đồng/kg đem về L2 bán lại cho khách với giá 310.000.000 đồng đến 315.000.000 đồng/kg, Ketamine mua giá 600.000.000 đồng/kg đem bán lại giá 610.000.000 đồng đến 620.000.000 đồng/kg còn thuốc lắc mua giá 40.000 đồng/viên đem bán lại giá 50.000 đồng/viên cụ thể:

- Lần thứ nhất: L2 không nhớ rõ ngày, D đem đến chỗ ở của L2 283 viên thuốc lắc loại hồng phiến có ký hiệu “WY” với giá 40.000 đồng/viên và 02 kg ma túy đá giá 300.000.000 đồng/kg cho L2 bán, sau khi có ma túy L2 bán thuốc lắc lại với giá 50.000 đồng/viên, ma túy đá L2 phân thành nhiều gói nhỏ để bán lẻ nhưng chưa kịp bán hết thì bị phát hiện thu giữ như đã nêu trên.

- Lần thứ hai: Khoảng 15 giờ ngày 30/01/2019, D đem 02 kg Ketamine và 5 kg ma túy đá đến tại nhà ở của L2 để cho L2 cất giữ nhằm mục đích bán lại kiếm lời. Sau đó, L2 gọi điện thoại cho Y thông báo là đã có ma túy qua lấy về để bán, Y nói cho L2 biết ông B (người trước đó đã 02 lần đến nhà của L2 lấy ma túy) sẽ là người qua nhà của L2 để nhận ma túy đem về cho Y, khoảng 10 phút sau thì B đến chỗ ở của L2 nhận 01 kg ma túy đá do L2 đưa rồi B bỏ vào túi áo mưa màu xanh đem về cho Y, sau đó L2 bị bắt giữ như đã nêu trên.

Số ma túy còn lại (gồm 02 kg Ketamine và 4 kg ma túy đá) L2 đem qua nhà số 45/6/4 đường số 9, phường H1, quận T2, Thành phố Hồ Chí Minh (nhà này do L2 mượn của P3 bạn gái S) gần nhà ở của L2 nhằm mục đích để cất giấu số ma túy này và sau đó thì bị khám xét thu giữ.

Ngoài ra Cơ quan điều tra còn xác định, vào khoảng tháng 10/2018, L2 điện thoại cho S đặt mua 200 viên thuốc lắc, S báo lại chỉ còn 100 viên loại có ký hiệu “EA7”, L2 đồng ý mua với giá 160.000 đồng/viên, sau đó S nói Huỳnh Trung K đem 100 viên thuốc lắc loại ký hiệu “EA7”, đến nhà ở của L2 bán và nhận tiền đem về cho S. Sau khi mua được thuốc lắc, L2 đem bán lại 80 viên cho người nghiện với giá 170.000 đồng/viên, còn lại 20 viên chưa kịp bán thì bị khám xét thu giữ. Lần thứ hai vào khoảng ngày 20/01/2019, sau khi gọi điện thoại cho S để đặt mua ma túy nhưng S không nghe máy, L2 gọi điện thoại cho Trần Thị Thanh P3 đặt mua 250 viên thuốc lắc của P3 với giá 190.000 đồng/viên, K là người đem ma túy đến chỗ ở cho L2. Sau đó, L2 bán lại cho khách với giá 200.000 đồng/viên rồi gom tiền trả cho P3 và K là người đến gặp L2 để lấy tiền về cho P3. Sau những lần mua thuốc lắc của P3, L2 đã 02 lần gom trả tiền mua thuốc lắc cho P3 lần thứ nhất là 100.000.000 đồng và lần thứ 02 là 120.000.000 đồng.

Nguyễn Thanh S là người sử dụng ma túy từ khoảng tháng 9/2018, để có ma túy sử dụng S lên mạng xã hội zalo để tìm mua ma túy sử dụng và sau đó có người hỏi mua thì S bán lại kiếm tiền lời. Khoảng tháng 10/2018, L2 gọi điện thoại cho S đặt mua 200 viên thuốc lắc nhưng do người bán thuốc lắc cho S chỉ còn 100 viên thuốc lắc loại ký hiệu “EA7”, S gọi điện thông báo cho L2 biết chỉ còn 100 viên thuốc lắc giá 160.000 đồng/viên, L2 đồng ý mua nên S nói nói Huỳnh Trung K cầm 100 viên thuốc lắc này đem đến bán cho L2 và nhận 16.000.000 đồng đem về cho S, rồi trả công cho K 200.000 đồng. Vào ngày 31/01/2019, sau khi nghe thông tin L2 cùng đồng phạm bị Công an bắt, S gọi điện thoại nói với Quốc X thu gom ma túy cùng dụng cụ sử dụng ma túy và đồ đạc cá nhân của S rồi đón xe Grabcar đi đến đường V gặp S nhằm mục đích để bỏ trốn khỏi Thành phố Hồ Chí Minh một thời gian cùng với P3 và H. Sau khi đón được Quốc X, cả 04 người lên xe ô tô của S đi thì bị Công an kiểm tra phát hiện thu giữ ma túy trên xe ô tô như đã nêu trên. Số ma túy thu giữ trong hộp giấy có ghi chữ “HERMES” để trên xe là của S do S mua của một người không rõ lai lịch trên mạng xã hội (Zalo) trước ngày bị bắt khoảng 01 tuần nhằm mục đích để sử dụng và bán lại kiếm tiền lời; việc S cất giấu ma túy trên xe và bán ma túy cho L2 thì Trần Hoàng H và Trần Thị Thanh P3 hoàn toàn không biết mà chỉ có Quốc X là người biết số ma túy của S đang cất giữ trên xe. Lời khai của S phù hợp với lời khai của L2, K, Quốc X và các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ.

Trần Thị Thanh P3 đã mua bán ma túy được khoảng 6 tháng cho đến khi bị bắt. Số ma túy Cơ quan Công an thu giữ khi khám xét chỗ ở của P3 là do P3 mua của một người đàn ông tên H2 (không rõ lai lịch) vào chiều tối ngày 30/01/2019. Trước đó khoảng 01 tuần, P3 sử dụng mạng xã hội zalo để liên lạc với H2 đặt mua số lượng thuốc lắc là 7.200 viên với giá 170.000 đồng/01 viên, sau đó đem bán lại cho người nghiện với giá 190.000 đồng/01 viên. Chiều ngày 30/01/2019, sau khi nhận được ma túy thì P3 đem về nhà thuê số 212B/D93 Nguyễn Trãi, phường N1, Quận 1 và bảo cháu ruột là Trần Hoàng H chia thuốc lắc ra thành nhiều gói nhỏ, mỗi gói chứa 100 viên để bán lại cho khách. Sau khi phân chia ma túy xong, P3 nói H đem toàn bộ số ma túy từ nhà 212B/D93 đường N, phường N1, Quận 1 đến phòng 307, nhà số 189B/A30 đường C1, phường N1, Quận 1 do P3 thuê nhằm mục đích dùng để làm nơi cất giấu ma túy, sau đó thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B1 khám xét và thu giữ (số ma túy này chỉ có P3 và H biết). Sau khi mua được ma túy P3 đã bán 200 viên thuốc lắc cho 01 người thanh niên tên H3 (không rõ lai lịch), P3 và H3 thỏa thuận khi H3 bán hết thuốc lắc sẽ trả tiền cho P3. Ngoài ra, P3 còn thừa nhận đã nhiều lần bán thuốc lắc cho Trần Thị Thanh L2 nhưng không nhớ rõ ngày cụ thể; P3 chỉ nhớ lần cuối cùng là vào ngày 20/01/2019, P3 bán 250 viên thuốc lắc cho L2 với giá 190.000 đồng/01 viên sau khi bán ma túy cho L2 xong thì P3 nhờ Huỳnh Trung K đi đến nhà của L2 lấy tiền về cho P3 nhưng không nói cho K biết lấy tiền gì, mỗi lần K đi lấy tiền về cho P3, P3 trả công cho K từ 150.000 đồng đến 300.000 đồng/lần.

Huỳnh Quốc X là người sử dụng ma túy từ năm 2013 cho đến nay và bị bắt buộc đi cai nghiện đến năm 2015 chấp hành xong về địa P3 thì quen biết với Nguyễn Thanh S. Đến cuối năm 2018 thì Quốc X sử dụng lại ma túy và trong 01 lần đi chơi Quốc Xgặp lại S và được S rủ về nhà của S ở huyện N4 chơi. Đến tối ngày 30/01/2019, S điện thoại nói Quốc X xuống đường N, Quận 1 chơi cùng với S, sau đó Quốc X đi cùng S về nhà của S tại nhà số 733/1/10B, đường N2, xã N3, huyện N4, tại đây Quốc Xthấy S mở hộp giấy màu cam có ghi chữ “HERMES”, bên trong có nhiều gói cà phê, S lấy một gói cà phê mở ra bên trong có chứa ma túy đá S lấy ra một ít bỏ vào dụng cụ để S và Quốc Xcùng sử dụng, sau khi sử dụng ma túy xong Quốc Xngủ lại nhà của S. Đến khoảng 15 giờ ngày 31/01/2019, Quốc Xđang ngủ thì S gọi Quốc Xdậy trông nhà còn S đi sửa xe đến khoảng 18 giờ cùng ngày S gọi điện thoại cho Quốc Xnói thu gọn đồ dùng cá nhân, quần áo của S cùng với số ma túy để trên bàn bỏ hết vào trong hộp giấy màu cam có ghi chữ “HERMES” rồi đón xe Grabcar đi đến đường Vgặp S để cùng đi về miền tây chơi, Quốc Xđồng ý rồi đón xe đi đến điểm hẹn gặp S, P3 và H. Tại đây, Quốc X để hộp giấy màu cam có ghi chữ “HERMES” bên trong có chứa ma túy ở phía sau cốp xe ô tô của S rồi lên xe cùng đi, sau đó bị kiểm tra bắt giữ như đã nêu trên. Trong quá trình làm việc, Quốc X khai chỉ biết trong hộp giấy có chứa ma túy nhưng cụ thể loại gì và số lượng bao nhiêu thì Quốc X không rõ. Khi S gọi điện thoại nói thu dọn đồ dùng và ma túy để trên bàn bỏ vào hộp màu cam đem đi cho S thì Quốc X làm theo S, còn mục đích S cất giấu ma túy làm gì thì Quốc X không biết.

Trần Hoàng H là cháu ruột của Trần Thị Thanh P3, vào khoảng đầu tháng 12/2018, H từ tỉnh Vĩnh Long lên Thành phố Hồ Chí Minh để tìm việc làm và ở nhà của S tại huyện N4 cùng với S và P3. Vào khoảng 02 tuần trước khi bị bắt, do S và P3 xảy ra mâu thuẫn nên H và P3 cùng chuyển đến thuê nhà số 212B/D93 đường N, phường N1, Quận 1 để ở. Tại đây, P3 thỏa thuận với H về việc phụ giúp P3 mua bán ma túy thì sẽ được P3 trả công bằng tiền và cho ma túy để sử dụng nên H đồng ý. H biết P3 thuê phòng 307, nhà số 189B/A30 Cống Quỳnh, phường N1, Quận 1 dùng để làm nơi cất giấu ma túy. Từ ngày 24/12/2018 cho đến lúc bị bắt, H đã 2 lần phân chia thuốc lắc rồi đem qua phòng 307 cất giấu và đã 3 lần lấy thuốc lắc từ phòng 307 đem về giao cho P3 đi bán.

Huỳnh Trung K là người không có công việc ổn định vào khoảng đầu tháng 10/2018 thông qua bạn quen biết ngoài xã hội giới thiệu, nên K quen với S và P3. Sau đó K được S thuê đi giao ma túy và nhận tiền từ việc mua bán ma túy đem về cho S với tiền công mỗi một lần đi từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng, K đồng ý. Cụ thể trong tháng 10/2018, S nói K đem ma túy (ma túy được để trong gói cà phê hàn kín nên K không rõ loại gì, số lượng bao nhiêu) đến chỗ ở của Trần Thị Thanh L2và nhận tiền từ L2 về cho S. Đến đầu tháng 12/2018, K không làm cho S nữa và chuyển qua đi nhận tiền bán ma túy giúp cho P3, mỗi lần đi được P3 trả công 150.000 đồng đến 300.000 đồng, trong đó K đã 2 lần đến gặp L2 để nhận tiền đem về cho P3.

Lê Hải Y sau khi biết Lầu Vĩnh B bị bắt đã lẩn trốn cho đến ngày 22/10/2019 tiếp tục thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì bị phát hiện bắt giữ. Tiến hành cho Y nhận dạng L2, B và ngược lại, các đối tượng đều nhận ra nhau. Hiện Y đã bị Cơ quan Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố và tạm giam trong vụ án khác đang điều tra làm rõ để xử lý.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2022/HS-ST ngày 04/5/2022 và Thông báo sửa chữa, bổ sung Bản án số 279/2022/TB-TA ngày 08/6/2022 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Hoàng H: Tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2019. Phạt bổ sung bị cáo Trần Hoàng H20.000.000 đồng;

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250; khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lầu Vĩnh B: Tù chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2019.

Ngoài ra, bản án còn tuyên xử bị cáo Trần Thị Thanh L2: Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo Trần Thị Thanh L230.000.000 đồng;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S: 20 (hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2019. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thanh S20.000.000 đồng;

Xử phạt bị cáo Trần Thị Thanh P3: Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo Trần Thị Thanh P3 30.000.000 đồng; Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Trung K: 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2019. Phạt bổ sung bị cáo Huỳnh Trung K 10.000.000 đồng;

Xử phạt bị cáo Huỳnh Quốc X: 20 (hai mươi) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 31/01/2019. Phạt bổ sung bị cáo Huỳnh Quốc X20.000.000 đồng.

Và Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/5/2022 bị cáo Trần Hoàng H và bị cáo Lầu Vĩnh B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Hoàng H rút lại đơn kháng cáo. Bị cáo Lầu Vĩnh B vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Hoàng H đã nhận thức hành vi phạm tội và rút lại đơn kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Hoàng H.

Đối với kháng cáo của bị cáo Lầu Vĩnh B. Bị cáo B cho rằng bị lợi dụng, không biết ma túy. Số lượng ma túy bị bắt quả tang. Án sơ thẩm xét xử bị cáo B tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là có căn cứ. Hình phạt án sơ thẩm xét xử bị cáo tù chung thân là tương xứng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo Lầu Vĩnh B trình bày:

Theo đơn kháng cáo, bị cáo kháng cáo xin xem xét cho mức án nhẹ hơn. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét toàn diện vụ án. Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 30/01/2019, bị cáo bị bắt quả tang số lượng ma túy lớn. Bị cáo có biết hay không biết số lượng ma túy? Biên bản tại cơ quan điều tra bị cáo trình bày biết có người sử dụng, sau đó bị cáo khai chỉ nghi là ma túy. Bị cáo thay đổi lời khai nói chỉ lấy hàng của Y đi giao. Bị cáo lớn tuổi. Bị cáo treo gói hàng trên xe của bị cáo. Ý thức của bị cáo cần xem xét vì bị cáo biết là ma túy thì không thể treo trên xe như vậy. Bị cáo chưa nghĩ đến hậu quả bị cáo phải chịu nếu là ma túy. Bị cáo bị bắt quả tang, không lường đến hậu quả. Bị cáo chạy xe ôm. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ý thức của bị cáo khi phạm tội, độ tuổi, hậu quả, hành vi để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Lầu Vĩnh B trình bày: Đồng ý với ý kiến của người bào chữa, xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia tranh luận: Luật sư nêu tình tiết của vụ án và đề nghị cần xem ý thức của bị cáo. Án sơ thẩm đã xem xét cân nhắc toàn diện nên chỉ xử bị cáo ở mức án tù chung thân. Số lượng ma túy lớn gần 01 kg. Án sơ thẩm đã xem xét đánh giá ý thức vai trò của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của người bào chữa cho bị cáo.

Bị cáo Lầu Vĩnh B nói lời nói sau cùng: Cáo trạng không đề cập đến Y. Y trình bày chú B chỉ đi lấy đồ, là xe ôm, không nhận tiền gì. Có các người làm chứng xác định bị cáo là xe ôm. Y sai qua L2 lấy đồ. Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lầu Vĩnh B và bị cáo Trần Hoàng H thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo Trần Hoàng H rút lại đơn kháng cáo.

Ngày 30/01/2019, Cơ quan Điều tra Công an quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang Lầu Vĩnh B có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 974,24 gam, loại Methamphetamine. Căn cứ lời khai của Lầu Vĩnh B, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B1 tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Thị Thanh L2 về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Vào lúc 21 giờ ngày 31/01/2019, tại khu vực đường V thuộc Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Đội Cảnh sát giao thông tiến hành kiểm tra xe ô tô 51G-900.02 do Nguyễn Thanh S điều khiển, trên xe có Trần Thị Thanh P3, Huỳnh Quốc X và Trần Hoàng H có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên tiến hành tạm giữ. Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận hành vi như nội dung án sơ thẩm.

Bị cáo Lầu Vĩnh B cho rằng: Không biết gói hàng nhận của L2 mang về cho Y là ma túy, bị cáo làm nghề xe ôm nên khi được Y điện thoại cho bị cáo và cho bị cáo số điện thoại của L2, bị cáo đã điện thoại cho L2, khi lên nhà L2 nhận túi đồ mang về cho Y thì bị bắt quả tang, lúc đó bị cáo mới biết gói đồ đó là ma túy.

Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bút lục 357 - 358) bị cáo đã thừa nhận một người tên Y, gọi điện thoại kêu đi lấy đồ, bị cáo nghĩ là hàng cấm; tại biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can (Bút lục 400 - 417) bị cáo thừa nhận đồ mà Y kêu đến lấy là ma túy vì khi bị cáo lên phòng của Y và thấy có người sử dụng ma túy nên bị cáo biết, bị cáo và Y, L2 thường gọi ma túy tiếng lóng là đồ và bị cáo biết Y kêu bị cáo đi lấy ma túy về để bán cho con nghiện vì có lần Y đưa ma túy cho bị cáo đi giao cho con nghiện. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo B còn cho rằng bị cáo bị Điều tra viên đánh đập, bắt khai theo yêu cầu của Điều tra viên. Tuy nhiên, cuối các bản khai bị cáo đều ghi đã đọc lại và xác nhận nội dung là đúng, có chứng kiến của Kiểm sát viên tham gia. Như vậy, lời khai nại của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm là không có cơ sở, bị cáo biết rõ Y giao đến nhà L2 nhận ma túy mang về cho Y.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, lời khai của người chứng kiến, bản kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Hoàng H và việc rút kháng cáo của bị cáo Trần Hoàng H tại phiên tòa phúc thẩm là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Hoàng H.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Lầu Vĩnh B và đề nghị của luật sư bào chữa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[4.1] Về tội danh: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo bị cáo Lầu Vĩnh B về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[4.2] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm hại sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ cộng đồng và trật tự trị an toàn xã hội.

Bị cáo Lầu Vĩnh B phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy” với khối lượng ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang là 974,24 gam loại Methamphetamine thuộc trường hợp khối lượng Methamphetamine từ 100 gam trở lên quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đối với bị cáo Lầu Vĩnh B có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, số lượng ma túy khi bắt quả tang đặc biệt lớn. Tòa án cấp sơ thẩm xem xét nhân thân, hoàn cảnh gia đình của bị cáo, đã có mức án khoan hồng hơn đối với bị cáo, thể hiện chính sách pháp luật của Nhà nước đối với người có hành vi vi phạm pháp luật nên đã áp dụng mức hình phạt Tù chung thân là phù hợp. Hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng với bị cáo là phù hợp, đúng pháp luật.

[4.3] Bị cáo Lầu Vĩnh B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có cơ sở. Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đề nghị.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[5] Do không được chấp nhận kháng cáo, bị cáo Lầu Vĩnh B phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 348, điểm đ khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Chấp nhận việc rút đơn kháng cáo của bị cáo Trần Hoàng H.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Trần Hoàng H.

Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2022/HS-ST ngày 04/5/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử bị cáo Trần Hoàng H có hiệu lực pháp luật.

2. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lầu Vĩnh B. Giữ nguyên án sơ thẩm.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250; khoản 2 Điều 51; Điều 39 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lầu Vĩnh B: Tù chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2019.

Tiếp tục tạm giam bị cáo theo Quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo việc thi hành án.

2. Các nội dung khác trong quyết định Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2022/HS-ST ngày 04/5/2022 và Thông báo sửa chữa, bổ sung Bản án số 279/2022/TB-TA ngày 08/6/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bị cáo Lầu Vĩnh B phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 570/2022/HS-PT

Số hiệu:570/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về