Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 13/06/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2022/QĐXXST-HS ngày 02/6/2022, đối với bị cáo:

Mùa A D (tên gọi khác: không), sinh ngày: 14/12/1989, tại huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản H, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo tin lành; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Mùa Phái Ch (tên gọi khác: Mùa Phái S), sinh năm: 1963 và bà Giàng Thị P, sinh năm: 1966; có vợ là Hờ Thị C, sinh năm 1992 (đã chết); từ năm 2015 đến nay sống chung như vợ chồng với chị Vàng Thị K, sinh năm: 1987; bị cáo có 07 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2020; 01 con sinh năm 2015 đã chết; tiền án: không, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/01/2022, tạm giam từ ngày 11/01/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Mùa A D: Bà Nguyễn Thị P, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Vàng Thị K, sinh năm: 1987;

địa chỉ: H, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên (có mặt).

- Người phiên dịch: Ông Giàng A C1, sinh năm: 2000; địa chỉ: Đội 19, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu năm 2021, Mùa A D đến chợ thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên để mua đồ thì gặp và quen biết một người đàn ông giới thiệu tên là C, quốc tịch Lào, hai người có cho nhau số điện thoại để liên lạc. Ngày 07/01/2022, khi đang ở bản H, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên, D nhận được điện thoại của C, C đặt vấn đề thuê D vận chuyển 10 bánh Heroine từ khu vực biên giới Việt Nam - Lào về giao cho người nhận là 02 người dân tộc Mông ở tỉnh Lào Cai và hứa sẽ trả công cho D 03 triệu đồng, D đồng ý. Sáng ngày 08/01/2022, D lên khu vực biên giới Việt Nam - Lào thuộc khu vực bản H, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên. Tại đây D gặp C và một người không biết tên tuổi đưa cho D 10 bánh Heroine và cho số điện thoại của người nhận là 0855.817.873. Sau khi nhận được Heroine D mang cất giấu trong rừng, sau đó liên lạc với người nhận Heroine để trao đổi về thời gian, địa điểm nhận Heroine. Khoảng 00 giờ ngày 09/01/2022, D đến chỗ giấu Heroine, lấy ba lô bên trong có chứa 10 bánh Heroine để lên giá để hàng phía trước của xe máy biển kiểm soát 27U1-056.25 và điều khiển xe máy đi đến gầm cầu bê tông cạnh đường Quốc lộ, D để xe máy ở đó, khoác ba lô đi bộ ra khu vực bản P 2, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên thì bị Tổ công tác đồn biên phòng M phối hợp với Phòng Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy, Công an tỉnh Điện Biên phát hiện bắt quả tang, thu giữ 10 bánh Heroine có tổng khối lượng là 3.459,1 gam và các đồ vật khác.

Tại bản Kết luận giám định số: 200/GĐ-PC09 ngày 17/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- Khối lượng vật chứng thu giữ của Mùa A D là 3.459,1 gam.

- 10 (mười) mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Mùa A D gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại bản Cáo trạng số: 26/CT-VKS-P1 ngày 06/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố Mùa A D để xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Mùa A D phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 40 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Mùa A D tử hình.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 250 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, ban đầu bị cáo không nhận tội nhưng sau đó bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và không tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo không khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng. Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo Mùa A D đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm được trở về với vợ, con.

Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên, đồng thời không có ý kiến khiếu nại gì về các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến điều kiện sinh sống của bị cáo vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, việc am hiểu pháp luật có phần hạn chế, nhất thời phạm tội, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, số ma túy đã kịp thời bị thu giữ chưa phát tán ra ngoài xã hội. Bị cáo đã tích cực giúp đỡ Cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo ở mức hình phạt phù hợp với quy định của pháp luật.

Do điều kiện hoàn cảnh kinh tế bị cáo còn gặp nhiều khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 250 của Bộ luật Hình sự và miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Vàng Thị K trình bày: Số tiền mua xe máy là do Mùa A D tự vay ngân hàng để mua, nhưng hiện nay chị K và D đang chung sống như vợ chồng nên nguyện vọng muốn xin lại toàn bộ xe để làm phương tiện đi lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, ban đầu bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội mà cho rằng người có tên là C thuê bị cáo vận chuyển hàng, bị cáo không biết là loại hàng gì nhưng sau đó bị cáo Mùa A D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra được ghi nhận tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 01 giờ 45 phút ngày 09/01/2022, Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại đồ vật, bản Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Quá trình tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo Mùa A D đã khai nhận: Do có một người đàn ông, dân tộc Mông tự giới thiệu tên là C, quốc tịch Lào, đã liên lạc với bị cáo qua điện thoại di động. Ngày 07/01/2022, D nhận được điện thoại của C, C đặt vấn đề thuê D vận chuyển (hàng) là 10 bánh Heroine từ khu vực biên giới Việt Nam - Lào về giao cho 02 người dân tộc Mông ở tỉnh Lào Cai và hứa sẽ trả công cho D 03 triệu đồng, D đồng ý. Sáng ngày 08/01/2022, D lên khu vực biên giới Việt Nam - Lào thuộc bản H, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên. Tại đây, D gặp C và một người không biết tên tuổi đưa cho D 10 bánh Heroine và cho D số điện thoại của người nhận Heroine là 0855.817.873. Sau khi nhận được Heroine D mang cất giấu trong rừng, sau đó liên lạc với người nhận Heroine để trao đổi về thời gian, địa điểm nhận Heroine. Khoảng 00 giờ ngày 09/01/2022, D đến chỗ giấu Heroine lấy ba lô bên trong có chứa 10 bánh Heroine để lên giá để hàng của xe máy biển kiểm soát 27U1-056.25 và điều khiển xe máy đến điểm hẹn, khi đi đến gầm cầu bê tông cạnh đường Quốc lộ, D để xe máy ở đó, khoác ba lô đi bộ ra khu vực bản P2, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên thì bị Đồn biên phòng M phối hợp cùng Công an tỉnh Điện Biên phát hiện bắt quả tang, thu giữ 10 bánh Heroine có tổng khối lượng 3.459,1 gam.

Do đó, Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo Mùa A D đã phạm vào tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 250 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử thấy rằng kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi vận chuyển trái phép 3.459,1 gam Heroine của bị cáo Mùa A D đã vi phạm tình tiết định khung được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện: Hội đồng xét xử xét thấy, tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý c ủa Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động vận chuyển các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bị bắt và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tính chất hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng. Mặc dù ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa bị kết án về tội danh nào khác, chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Song bị cáo nhận thức rất rõ việc pháp luật nghiêm cấm và xử phạt rất nghiêm khắc của pháp luật đối với các hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy nhưng vì muốn có nhiều tiền một cách nhanh chóng bị cáo đã cố tình vi phạm. Để nghiêm trị những hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhất là tội phạm về ma túy. Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt cao nhất đó là loại trừ bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, để lấy đây làm bài học cảnh báo chung cho toàn xã hội, phục vụ cho công tác đấu tranh, ngăn ngừa các loại tội phạm trong tình hình hiện nay. Đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về phần hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ cần chấp nhận.

Về đề nghị của người bào chữa cho bị cáo về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ chấp nhận, tuy nhiên đề nghị về xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Mùa A D là không có căn cứ để chấp nhận. Bởi vì: mặc dù bị cáo cũng đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và tỏ ra ăn năn hối cải song tổng khối lượng ma túy mà bị cáo tham gia mua bán là đặc biệt lớn (3.459,1 gam Heroine) và đặc biệt nguy hiểm cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm nông nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Do vậy, đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và người bào chữa chữa cho bị cáo là có căn cứ để chấp nhận.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng về thẩ m quyền, trình tự, thủ tục các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần xử lý vật chứng của vụ án như sau:

- Đối với 3.431,63 gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi giám định, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc ba lô bộ đội, vải rằn ri màu xanh, có 2 quai đeo đã qua sử dụng; 01 chiếc bao tải, loại bao xác rắn màu xanh đã cũ, là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe máy, nhãn hiệu ESPERO, biển kiểm soát 27U1-056.25; 01 chiếc điện thoại di động, loại bàn phím, nhãn hiệu GOLY (A16), vỏ màu đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng, đây là các phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí: Theo quy định tại các Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Mùa A D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, xét thấy, bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Căn cứ theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: HĐXX quyết định miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Theo lời khai của bị cáo Mùa A D, trong vụ án này có người đàn ông tên C (quốc tịch Lào) là người đã giao và thuê bị cáo vận chuyển ma túy nhưng bị cáo không biết rõ nhân thân, địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để điều tra làm rõ. Đối với số điện thoại 0855.817.873 là số điện thoại mà C đã cung cấp để D liên lạc giao dịch mua ma túy. Cơ quan điều tra đã tra cứu số điện thoại đó xác định chủ thuê bao là Nguyễn Văn T, sinh năm 1965, trú tại: Thôn H, xã T, huyện S, thành phố Hà Nội nhưng không đủ căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét, xử lý trong vụ án này.

Vì các lẽ trên,

 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Mùa A D (tên gọi khác: không) phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 40 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mùa A D tử hình.

- Áp dụng khoản 4 Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy: 3.431,63 gam Heroine là vật chứng còn lại sau khi giám định; 01 chiếc ba lô bộ đội, vải rằn ri màu xanh, có 2 quai đeo đã qua sử dụng;

01 chiếc bao tải, loại bao xác rắn màu xanh đã cũ.

* Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:

- 01 chiếc xe máy, loại xe 2 bánh, nhãn hiệu ESPERO, nhưng dán nhãn hiệu SIRIUS, lốc máy đã thay in chữ DETECH, màu sơn trắng, biển kiểm soát 27U1- 056.25; số máy: VDEJ0152FMH-B*153820*; số khung: RPEXCH8PECA*153820*. Số loại 110BS, dung tích xi lanh: 107. Tình trạng xe cũ đã qua sử dụng, xe không có gương chiếu hậu, yếm xe bị vỡ lát, không có mặt đồng hồ, xe không có chìa khóa điện.

- 01 chiếc điện thoại di động, loại bàn phím, nhãn hiệu GOLY (A16), vỏ màu đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

(Theo Biên bản bàn giao, nhận vật chứng ngày 06/5/2022 giữa Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên)

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Mùa A D.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ các Điều 331, Điều 333, Điều 367 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo Mùa A D được quyền kháng cáo bản án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân Cấp cao trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (13/6/2022).

Trong thời hạn 07 ngày kể từ khi Bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo bị tuyên tử hình có quyền làm đơn xin ân giảm đến Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về