Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 51/2022/HS-PT NGÀY 10/03/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Võ Thị Trúc P, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 40/2021/HS-ST ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Võ Thị Chúc P, sinh ngày 09/8/1993 tại huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Nơi cư trú: Ấp TNt, xã TY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Hồng Văn và bà Ngô Thị Cẩm Vân; có chồng là Hà Trọng Tài (đã ly hôn); bị cáo có 01 người con sinh năm 2016.

Tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19 tháng 11 năm 2012 Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Rạch Giá ban hành Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh số 1412/QĐ/UBND đối với Võ Thị Chúc Phương do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời gian chấp hành là 24 tháng, đến ngày 06 tháng 8 năm 2014 P chấp hành xong thời hạn đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/5/2021 cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 19 tháng 5 năm 2021, qua công tác nhiệp vụ đội 1 cảnh sát điều tra Công an huyện An Biên phối hợp với Công an xã Tây Yên A, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang kiểm tra và phát hiện Võ Thị Chúc P đang vận chuyển trái phép ma túy để giao cho đối tượng Trần Tuấn Minh nên tiến hành lập biên bản bắt quả tang, thu giữ vật chứng gồm:

- 01 (một) bịch ny lon trong suốt, có rãnh gài, kích thước 5,5 cm x 4cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất nghi là chất ma túy (để bên trong hộp giấy cài trên võng xe mô tô);

- 01 (một) bịch ny lon trong suốt, có rãnh gài viền màu đỏ, kích thước (9,5cm x 04cm) bên trong chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất nghi vấn là chất ma túy (để bên trong hộp giấy cài trên võng xe mô tô);

- 01(một) bịch ny lon trong suốt, viền màu xanh có rãnh gài, kích thước (5,5cm x 04cm) bên trong chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất nghi là chất ma túy (để bên trong túi xách màu đen đeo trên người);

- 01(một) bịch ny lon trong suốt được hàn kín kích thước (3,5cm x 1,5cm) bên trong bịch ny lon có chứa các hạt tinh thể trong suốt màu vàng không đồng nhất nghi là chất ma túy (để bên trong túi xách màu đen đeo trên người).

- 01 (một) hộp giấy màu vàng trắng có dòng chữ “Hương thảo mộc” và nhiều chữ khác, kích thước 6,5cm x 07cm x 07cm và 01 (một) túi xách màu đen có dây đeo.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu đỏ đen biển kiểm soát 68 B1- 125.57; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu xanh phía sau có in dãy chữ Realme, kiểu máy RMX 2101 và 02 sim điện thoại di động.

Khi bị bắt quả tang Võ Thị Chúc P khai nhận: 02 (hai) bịch ma túy đựng trong hộp giấy là số ma túy đối tượng tên Thịnh (không rõ nhân thân lai lịch) ở Hà Tiên thuê vận chuyển để giao cho người tên Nguyễn Tuấn Minh ở Thứ 5 - An Biên, còn 02 bịch ma túy để trong túi xách màu đen P giao nộp cho Công an là số ma túy mà tên Thịnh cho P để sử dụng.

Sau khi thu giữ những vật chứng trên, các vật chứng được tiến hành niêm phong theo quy định để gửi giám định, cụ thể: 02 bịch ma túy để trong hộp giấy cài trên võng xe mô tô vận chuyển để giao cho Nguyễn Tuấn Minh được niêm phong trong bì thư màu trắng được dán kín có chữ ký ghi rõ họ tên Trần Thanh Sỏi, Nguyễn Văn Đủ, Lê Văn Dũng, Võ Thị Chúc P được ký hiệu Mẫu 1; 02 bịch ma túy P cất giấu trong túi xách màu đen đeo trên người mà Thịnh cho để sử dụng được niêm phong trong bì thư màu trắng dán kín có chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Văn Đủ, Lê Văn Dũng, Võ Thị Chúc P được ký hiệu Mẫu 2.

Tại Bản kết luận giám định số 505/KL-KTHS ngày 24/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận:

- Mẫu 1: Các hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất chứa trong 02 (hai) bịch ny lon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng gửi mẫu giám định là 10,8008 gam.

- Mẫu 2: Các hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất và các hạt tinh thể màu vàng không đồng nhất chứa trong 02 (hai) bịch ny lon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,8897 gam.

(Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 40/2021/HS-ST, ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Võ Thị Chúc P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b và điểm h khoản 2 Điều 250;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38, Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Võ Thị Chúc P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 08 (tám) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Võ Thị Chúc P chấp hành hình phạt là 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ là ngày 17/5/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/12/2021 bị cáo Võ Thị Chúc P có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo thừa nhận cấp sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là đúng hành vi bị cáo đã thực hiện. Mức án mà cấp sơ thẩm xử phạt là nặng so với hành vi phạm tội của bị cáo, nên giữ nguyên nội dung kháng cáo yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến:

Cấp sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo Võ Thị Chúc Phương về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm b và điểm h khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự là đúng quy định.

Đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức án 1 năm 06 tháng tù là phù hợp và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Đối với tội vận chuyển trái phép chất ma túy, ngoài lần bị bắt quả tang bị cáo P còn tự khai ra những lần thực hiện trước đó mặc dù chưa bị phát hiện, cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết định khung phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm b khoản 2 Điều 250 BLHS nhưng lại không áp dụng tình tiết giảm nhẹ tự thú quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là bỏ sót tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng, nên cấp phúc thẩm cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 356, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt 1 năm 6 tháng tù về tội tàng trừ trái phép chất ma túy và giảm từ 6 tháng đến 1 năm tù đối với tội vận chuyển trái phép chất ma túy so với mức hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên (8 năm tù giảm xuống từ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo P về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo Phương theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quyết định của Bản án sơ thẩm:

Vào khoảng 19 giờ ngày 17/5/2021, trên tuyến đường nhựa thuộc ấp Rẫy Mới, xã Tây Yên A, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, lực lượng Công an bắt quả tang Võ Thị Chúc P đang thực hiện hành vi vận chuyển ma túy thuê cho người tên Thịnh ở Hà Tiên với tiền công 2.000.000đ, P còn khai và tự nguyện giao nộp 02 bịch ma túy được Thịnh cho để sử dụng, đang cất giấu trên người. Ngoài ra P còn khai trước đó đã 4 lần thực hiện hành vi vận chuyển ma túy thuê cho Thịnh, mỗi lần được trả 2.000.000đ tiền công, lần thứ 5 đang trên đường đi giao ma túy, chưa nhận được tiền công thì bị bắt giữ. Kết quả giám định xác định được số ma túy P vận chuyển thuê cho của lần bị bắt quả tang là 10,8008gam, loại Methamphetamine; số ma túy P được người khác cho, đang cất giữ trong túi xách để sử dụng là 0,8897gam, loại Methamphetamine.

Do đó, bản án sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm b, điểm h khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm là có căn cứ, đúng quy định.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo P:

Sau khi xét xử sơ, bị cáo P có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt, với lý do mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là quá cao so với hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện.

Xét thấy, đối với tội vận chuyển trái phép chất ma túy, ngoài lần bị bắt quả tang, bị cáo còn tự khai ra những lần thực hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy trước đó mặc dù không bị phát hiện. Cấp sơ thẩm căn cứ vào lời tự khai nhận của bị cáo đối với những lần thực hiện hành vi trước khi bị bắt quả tang để xác định và áp dụng tình tiết định khung phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm b khoản 2 Điều 250 BLHS đối với bị cáo. Như vậy, bị cáo đã tự thú những lần thực hiện hành vi phạm tội trước khi bị bắt quả tang, nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tự thú quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là bỏ sót tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, nên cấp phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo. Đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy, khi bị bắt quả tang về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy (vận chuyển thuê cho người khác), bị cáo cũng tự giao nộp số ma túy được người khác cho đang cất giữ để bản thân sử dụng và tự khai nhận mục đích cất giữ số ma túy này, từ đó cơ quan chức năng mới có căn cứ xử lý được hành vi này đối với bị cáo. Do đó cũng cần xem xét, chiếu cố khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo về tội này.

Từ các phân tích trên thấy rằng, do bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ và xem xét thái độ thành khẩn khai báo của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận một phần ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo của bị cáo P, giảm một phần hình phạt so với mức án mà bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

[4] Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thị Chúc P; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày 24/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Võ Thị Chúc P 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

3. Áp dụng điểm b, điểm h khoản 2 Điều 250; điểm r, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Võ Thị Chúc P 7 (bảy) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

4. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự:

Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Võ Thị Chúc P phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 8 (tám) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ là ngày 17/5/2021.

5. Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Võ Thị Chúc P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 40/2021/HS-ST ngày 24/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 51/2022/HS-PT

Số hiệu:51/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về