Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 470/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 470/2022/HS-PT NGÀY 18/07/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 156/2022/TLPT- HS ngày 02 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Dì C và Nguyễn Quốc D, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 52/2022/HS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 648/2022/QĐXXPT ngày 23 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Dì C; Giới tính: Nam; Sinh năm 1972 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường T, Phường 13, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: đường Đ, phường A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Chạy xe ôm; Trình độ học vấn: 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm Trung K và con bà Ưng Nhị M; Hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và có 02 con (con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2007); Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/3/2020 (có mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Quốc D; Giới tính: Nam; Sinh năm 1980 tại Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn 2, xã S, huyện V, Thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: Phòng số 109 nhà số Q, phường A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Kinh doanh tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn T và con bà Nguyễn Thị L; Hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ, chưa có con; Tiền an, tiền sư: Không;

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/3/2020 (có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo C: Các Luật sư Lê Thành K, Huỳnh Trung H và Phan Văn T- Đoàn luật sư TP.HCM (các Luật sư có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo D: Luật sư Đoàn Thị Thiên Thanh T- Đoàn luật sư TP.HCM (có mặt).

Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo khác nhưng không liên quan đến kháng cáo nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 08 giờ 20 phút ngày 24/3/2020, Nguyễn Quốc D nhận điện thoại từ Hùng M yêu cầu D đến trước địa chỉ 507 LB, quận Tân Phú để nhận hàng và giao cho khách của Hùng M có số điện thoại 0706847280 (số điện thoại của Phạm Dì C) để nhận tiền công. Sau đó, D điện thoại hẹn C sẽ giao hàng tại khu vực vòng xoay Lê Đại Hành, Quận 11. Đến khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày 24/3/2020, tại trước nhà số 12 Lữ Gia, Phường 15, Quận 11, khi Nguyễn Quốc D giao ma túy cho Phạm Dì C thì bị Đội 6 - Phòng Cảnh sát điều tra về tội phạm về ma túy - Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Phòng 4 - Cục Cảnh sát điều tra về tội phạm về ma túy - Bộ Công an; Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm miền Nam - Bộ đội biên phòng; Công an Quận 4 và Công an Phường 15, Quận 11 phát hiện bắt quả tang Nguyễn Quốc D và Phạm Dì C có hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Thu giữ trong túi xách màu cam đen của D vừa đưa cho C: 10 gói trà màu xanh chứa tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9.902,71 gam, loại Methamphetamine; 05 gói nylon màu bạc, bên trong mỗi gói có 01 gói trà màu xanh chứa tinh thể rắn không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4.571,31 gam, loại Ketamine; 01 gói nylon màu hồng chứa 4.322 viên nén màu xanh, là ma túy ở thể rắn có khối lượng 1.723,35 gam loại, MDMA.

Theo kết luận giám định số 530/KLGĐ-H ngày 01/4/2020, 532/KLGĐ-H ngày 26/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh; Kết luận giám định số 1988/C09B ngày 01/4/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh thì thu giữ ma túy từ D và C, tổng cộng là: 9.902,71 gam loại Methamphetamine; 4.571,31 gam loại Ketamine và 1.723,35 gam loại MDMA.

D khai hai lần giao ma túy cho đối tượng tên Hùng M (không rõ lai lịch địa chỉ), một lần vào khoảng đầu thàng 3/2020, một lần vào tối ngày 23/03/2020 để nhận tiền công. C khai C hai lần nhận chuyển ma túy cho Thức, lần thứ nhất vào trước ngày bị bắt khoảng 3 tuần, lần thứ hai vào tối ngày 23/03/2020 là ngày bị bắt cùng với D nhưng Thức không thừa nhận.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 52/2022/HS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:

Căn cứ vào điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Nguyễn Quốc D);

Căn cứ vào điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Phạm Dì C);

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

- Xử phạt: Nguyễn Quốc D Tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 24/3/2020, nay tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xử phạt bổ sung: Buộc Nguyễn Quốc D phải nộp số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

- Xử phạt: Phạm Dì C Tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 24/3/2020, nay tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xử phạt bổ sung: Buộc Phạm Dì C phải nộp số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 21/01/2022, bị cáo Phạm Dì C và Nguyễn Quốc D cùng kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Cấp phúc thẩm thực hiện đúng các quy định về tố tụng, không vi phạm thủ tục tố tụng, đơn kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

Về nội dung kháng cáo: Cấp sơ thẩm kết luận các bị cáo phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy là có căn cứ, không oan, mức án của cấp sơ thẩm đối với các bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của hai bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt của án sơ thẩm.

Luật sư Thu trình bày bào chữa cho bị cáo D: Hồ sơ vụ án có nhiều điểm chưa rõ, do hoàn cảnh khách quan mà bị cáo bị người sử dụng ma túy lôi kéo, do khó khăn mà bị cáo nhận của đối tượng Hùng M 10 triệu đồng trước ngày bị cáo vận chuyển ma túy, nhờ bị cáo D vận chuyển ma túy, việc xác định động cơ phạm tội chưa rõ, bị cáo không biết túi hàng khi vận chuyển là ma túy, bị cáo không nhận tiền công vận chuyển ma túy, bị cáo có nhân thân tốt, đề nghị xử bị cáo mức án chung thân, cho bị cáo cơ hội được gặp gia đình.

Bị cáo D đồng ý với ý kiến của Luật sư, không tranh luận gì thêm.

Luật sư Kính trình bày: Việc truy tố bị cáo C là đúng người, đúng tội, hồ sơ vụ án thể hiện một số lời khai của bị cáo có mâu thuẫn, bị cáo vận chuyển hàng có nghi là hàng cấm, sau đó được xác định là ma túy mà chưa làm rõ ý thức của bị cáo khi phạm tội, đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự do bị cáo khai ra bị cáo Thức, bị cáo là người dân tộc Hoa, học vấn thấp, hoàn cảnh khó khăn, đề nghị giảm án cho bị cáo. Luật sư H trình bày: Lời khai của bị cáo C có nhiều mâu thuẫn, có lúc khai không biết hàng vận chuyển là ma túy, việc đối chất giữ C và Thức chưa làm rõ được Thức là chủ mưu, là người yêu cầu C vận chuyển ma túy, không có chứng cứ xác định C nhận 05 triệu đồng của Thức, chưa làm rõ ai là người cung cấp số điện thoại của D cho C, bị cáo bị lợi dụng, không có ý thức phạm tội, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Đề nghị hủy án để điều tra lại.

Luật sư Tú và bị cáo C không có ý kiến tranh luận, bị cáo C đồng ý với ý kiến các Luật sư.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]- Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều thừa nhận hành vi vận chuyển ma túy nhưng cho rằng không biết số hàng mà các bị cáo vận chuyển là ma túy. Căn cứ lời thừa nhận của bị cáo về việc giao hàng là ma túy, thời gian, địa điểm giao ma túy tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm, phù hợp với kết luận giám định và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ kết luận:

Vào lúc 08 giờ 20 phút ngày 24/3/2020, Nguyễn Quốc D nhận điện thoại từ đối tượng Hùng M (không rõ lai lịch, địa chỉ) yêu cầu D đến trước địa chỉ 507 LB, quận Tân Phú để nhận hàng là ma túy và giao cho khách của Hùng M có số điện thoại 0706847280 (số điện thoại của Phạm Dì C) để nhận tiền công. Sau đó, D điện thoại hẹn C sẽ giao hàng tại khu vực vòng xoay Lê Đại Hành, Quận 11. Đến khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày 24/3/2020, tại trước nhà số 12 Lữ Gia, Phường 15, Quận 11, khi Nguyễn Quốc D giao ma túy cho Phạm Dì C thì bị lực lượng chức năng bắt quả tang.

Thu giữ trong túi xách màu cam đen của D vừa đưa cho C gồm: 10 gói trà màu xanh chứa tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9.902,71 gam, loại Methamphetamine; 05 gói nylon màu bạc, bên trong mỗi gói có 01 gói trà màu xanh chứa tinh thể rắn không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4.571,31 gam, loại Ketamine; 01 gói nylon màu hồng chứa 4.322 viên nén màu xanh, là ma túy ở thể rắn có khối lượng 1.723,35 gam loại, MDMA. Theo kết luận giám định thì tổng cộng khối lượng ma túy thu của D và C là: 9.902,71 gam loại Methamphetamine; 4.571,31 gam loại Ketamine và 1.723,35 gam loại MDMA.

Cấp sơ thẩm kết luận bị cáo Nguyễn Quốc D và bị cáo Phạm Dì C phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm h khoản 4 Điều 250 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

[2]- Xét kháng cáo xin giảm nhẹ của các bị cáo thì thấy:

Khối lượng ma túy các bị cáo vận chuyển trái phép rất lớn. Hành vi của các bị cáo D, C là đặc biệt nghiêm trọng, rất nguy hiểm cho xã hội, gieo rắc tệ nạn ma túy, và là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác, ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe cộng đồng, có tác động rất xấu đến an ninh trật tự nên cần phải xử phạt thật nghiêm minh.

Xét thấy các bị cáo thuộc trường hợp không thể cải tạo, giáo dục được nên cần thiết phải loại các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có tác dụng răn đe và phục vụ công tác phòng chống tội phạm về ma túy. Cấp sơ thẩm khi lượng hình đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm áp dụng là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Các bị cáo kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên mức hình phạt đối với các bị cáo.

[3] - Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Quốc D và bị cáo Phạm Dì C; giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm số 52/2022/HS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh về phần hình sự đối với hai bị cáo như sau:

Căn cứ vào điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Nguyễn Quốc D);

Căn cứ vào điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Phạm Dì C);

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án;

1- Xử phạt: Nguyễn Quốc D Tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bổ sung: Buộc Nguyễn Quốc D phải nộp số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Nguyễn Quốc D bị bắt tạm giam kể từ ngày 24/3/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Quốc D để đảm bảo thi hành án.

2- Xử phạt: Phạm Dì C Tử hình về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bổ sung: Buộc Phạm Dì C phải nộp số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Phạm Dì C bị bắt tạm giam kể từ ngày 24/3/2020. Tiếp tục tạm giam bị cáo Phạm Dì C để đảm bảo thi hành án.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, bị cáo Phạm Dì C và Nguyễn Quốc D được quyền làm đơn lên Chủ tịch nước Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình.

3- Án phí phúc thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Quốc D và bị cáo Phạm Dì C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ.

Các quyết định khác của án sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 470/2022/HS-PT

Số hiệu:470/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về