Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 411/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TỈNH ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 411/2021/HS-PT NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 424 /2021/TLPT-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị D L bị tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2021/HS-ST ngày 02/07/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

- B cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị D L: sinh ngày 26/12/1995, tại tỉnh Kon Tum; Nơi đăng ký HKTT: tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: Không ổn định; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960 và bà Huỳnh Thị T, sinh năm 1968; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2020 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Tạ Văn N- Luật sư Văn phòng Luật sư S thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kon Tum; địa chỉ: tỉnh Kon Tum (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 15 phút ngày 10/9/2020, tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) Công an tỉnh Kon Tum đang làm nhiệm vụ trên đường tỉnh lộ 671, tại khu vực cổng chào thuộc thôn 5, xã Đ, thành phố K, tỉnh Kon Tum thì phát hiện 02 đối tượng đi trên xe mô tô mang biển số 82B 1-553.75 có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội về ma túy. Tổ công tác đã tiến hành dừng xe kiểm tra hành chính, người điều khiển xe mô tô khai tên A L. Tiếp tục kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong lòng bàn tay phải của đối tượng ngồi sau có 01 bì ni lông màu hồng bên trong có 02 bì ni lông không màu, trong đó có 01 bì ni lông không màu chứa chất tinh thể màu trắng và 01 bì ni lông không màu bên trong có 01 bì ni lông không màu chứa chất tinh thể màu trắng, người đó khai tên Nguyễn Thị D L, L khai nhận đó là ma túy đá, L đang vận chuyển cho một người không rõ nhân thân lai lịch với tiền công là 1.500.000 đồng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong theo đúng tang vật và quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 189/KLGĐ-PC09, ngày 15/09/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kon Tum, kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M1; M2) được niêm phong trong phong bì đánh số “01” gửi giám định là ma túy,có tổng khối lượng:98,319gam, là loại: Methamphetamine.

Quá trình điều tra Nguyễn Thị D L khai nhận: Vào sáng ngày 10/09/2020, L đi nhờ xe người đi đường (không rõ nhân thân lai lịch) đi từ xã Đ, T phố K ra thành phố K, khi ra tới nơi, L gọi điện cho Nguyễn Hoàng L1 ra đón và chở về nhà L1 chơi. Ngồi chơi một chút, L mượn xe của L1 chạy ra thành phố K dạo chơi, sau đó L gọi điện thoại Zalo cho một người tên A (không rõ nhân thân lai lịch) ở xã Đ, thành phố K mua 500.000 đồng chất ma túy đá, rồi L tiếp tục đi dạo, đến khoảng 18 giờ cùng ngày thì đi về lại nhà L1 chơi. Đến tối cùng ngày (không xác định thời gian cụ thể), L lấy ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy ra sử dụng, xong để ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy vào góc tường, rồi đi nấu mỳ tôm ăn nên không biết người nào sử dụng ma túy tiếp theo. L1 thấy vậy tò mò nên cũng đi vào sử dụng ma túy thử rồi để lại góc tường và ra ngoài nhắn tin rủ A L qua nhà chơi. Ăn xong mỳ tôm, đến khoảng 22 giờ ngày 10/09/2020 L nhận điện thoại Zalo của A nội dung “Vào ngã 4 xã Đắk Cấm gặp A lấy ma túy đưa vào Tân Điền giao cho người tên L2, A trả cồng 1.500.000 đồng) ”, L đồng ý. L rủ L1 đi nhưng L1 không đồng ý vì đang coi nhà. L thấy A L đang nằm võng chơi điện thoại nên nhờ A L chở về nhà ở xã Đ, T phố K, A L đồng ý và mượn xe mô tô biển số 82B1-553.75 của Nguyễn Công T để chở L về nhà, trên đường đi, L nói A L chở vào ngã 4 xã Đăk Cấm, thành phố K, khi tới nơi, L nói A L đứng đợi, L đi bộ cách đó khoảng 5 mét thì gặp A đang đứng đợi, A lấy ma túy đưa L và nói giao cho người tên L2 ở Tân Điền, xong việc A sẽ trả công 1.500.000 đồng, nhận ma túy L giấu trước bụng, đi bộ tới chỗ A L đứng chờ và nhờ A L chở về T, khi tới khu vực cổng chào thuộc thôn 5, xã Đ, TP.K thì bị Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) Công an tỉnh Kon Tum chặn xe kiểm tra và tiến hành lập biên bản bắt người quả tang.

Vật chứng, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án:

- 01 túi ni lông được niêm phong trong 01 (một) phong bì mặt trước có nội dung “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG PC09 SỐ: 189/KLGĐ- PC09”, mặt sau có các hình dấu tròn ghi nội dung “PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ * CÔNG AN TỈNH KON TUM” và có các chữ ký ghi tên của những người tham gia niêm phong tại mép dán (số ma túy còn lại sau giám định);

- 01 điện thoại di động dạng phím bấm, màu đen, nhãn hiệu NOKIA, đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động dạng cảm ứng, màu xanh đen, nhãn hiệu Samsung, đã vỡ kính mặt trước, đã qua sử dụng;

- 01 xe mô tô biển số 82B1 - 553.75.

Đối với 01 xe mô tô 82B1 - 553.75, theo lời khai của Nguyễn Công T là T mượn của bà Nguyễn Thị Huyền D, sau đó T cho A L mượn chở Nguyễn Thị D L đi vận chuyển ma túy, tuy nhiên bà D không biết nên Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Kon Tum đã xác định và trả cho bà D là phù hợp với pháp luật.

Với nội dung nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/HSST ngày 02 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon tum đã quyết định

Áp dụng: Điểm b khoản 3 Điều 250; điểm S, t khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị D L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị D L 14 (Mười bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/9/2020.

Bản án còn quyết định về án phí xử lý tang vật và quyền kháng cáo của bị cáo.

Trong hạn luật định bị cáo Nguyễn Thị D L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị D L, vẫn giữ nguyên nội dung đơn xin kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận đơn xin kháng cáo của bị cáo.

Người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, ý kiến người bào chữa và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan toàn diện và đầy đủ chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Để có tiền tiêu xài cá nhân nên vào ngày 10/09/2020, sau khi nghe điện thoại từ A thì Nguyễn Thị D L nhờ A L điều khiển xe mô tô 82B1- 553.75 chở L đến ngã tư Đắk Cấm nên A L đã chở L đến ngã tư Đ gặp A lấy 01 gói ma túy, có khối lượng 98,319 gam, loại Methamphetamine đi vào T, Xã Đ, T phố K giao cho L2 để được trả tiền công là 1.500.000 đồng, khi A L đang điều khiển xe mô tô 82B1- 553.75 đến khu vực cổng chào thuộc Thôn 5, Xã Đ, T phố K thì bị Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04) Công an tỉnh Kon Tum phát hiện và bắt quả tang thu giữ tang vật vụ án.

[2] Với hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thị D L Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015 là có cơ sở.

[3] Xét đơn kháng cáo của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Đối với hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, cha già, mẹ bị bệnh hiểm nghèo ( BL 157) bị cáo là lao động chính trong gia đình, tuổi đời còn trẻ, nhận thức pháp luật về ma túy còn hạn chế do vậy Hội đồng phúc thẩm xét thấy cẩn áp dụng thêm tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, tích cực cải tạo thành người có ích cho xã hội.

[4] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị D L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm C khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị D L. Sửa bản hình sự sơ thẩm số: 31/2021/HS-ST ngày 02-7-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

Áp dụng: Điểm b khoản 3 Điều 250; điểm S, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị D L phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị D L 13 ( Mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/9/2020.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị D L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 411/2021/HS-PT

Số hiệu:411/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về