Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý số 330/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 330/2020/HS-PT NGÀY 25/06/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hình sự thụ lý số 1069/2019/TLHS-PT ngày 26 tháng 12 năm 2019, đối với bị cáo Sùng Seo D, Giàng Seo K, Nguyễn Quang T. Do có kháng cáo của các bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2019/HS-ST ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai.

1. Bị cáo có kháng cáo:

1.1. Họ và tên: Sùng Seo D (Tên gọi khác: Không) - Giới tính: Nam; Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1994, tại huyện T, tỉnh Lào Cai; Nơi ĐKHKTT: Thôn S, xã P, huyện T, tỉnh Lào Cai; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: lớp 3/12; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông Sùng Seo S (Đã chết) và con bà Hoàng Thị C; Vợ: Không; Bị cáo có 01 con, sinh năm 2018; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2019 đến nay. Hiện tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Lào Cai. (Có mặt).

1.2. Họ và tên: Giàng Seo K (Tên gọi khác: Không) - Giới tính: Nam; Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1985, tại huyện C, tỉnh Lào Cai; Nơi ĐKHKTT: Thôn Nậm T, xã C, huyện T, Lào Cai; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: lớp 5/12; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông Giàng Seo C và con bà Cư Seo M; Vợ: Lồ Thị M; Bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2010; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/6/2019 đến nay. Hiện tạm giam tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Lào Cai. (Có mặt).

1.3. Họ và tên: Nguyễn Quang T (Tên gọi khác: Không) - Giới tính: Nam; Sinh ngày 07 tháng 12 năm 1987 tại huyện L, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT: Xóm 7, xã S, huyện L, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: lớp 9/12; Tiền án, tiền sự: Không; Con ông Nguyễn Quang H và con bà Nguyễn Thị C; Vợ: Lê Thị L, Bị cáo có 01 con, sinh năm 2016; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2019 đến nay. Hiện tạm giam tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Lào Cai. (Có mặt).

2. Người bào chữa cho các bị cáo:

2.1. Người bào chữa cho bị cáo Sùng Seo D: Bà Đỗ Thu B, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp Pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. (Có mặt) 2.2. Người bào chữa cho bị cáo Giàng Seo K: Bà Nguyễn Thị Thu H, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp Pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. (Có mặt) 2.3. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quang T: Ông Trần Thanh B, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Dung Sự - Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An. (Có mặt) Ông Lê Trường S, Luật sư thuộc Công ty luật hợp danh Thủy V - Đoàn luật sự tỉnh Lào Cai. (Có mặt)

3. Trong vụ án còn có: Bị cáo Sùng Seo P, bị cáo Lý A P, bị cáo Giàng A C, bị cáo Hồ Trung H; Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 11/6/2019, Công an huyện Mường Khương phối hợp với Đồn Biên phòng Bản Lầu làm nhiệm vụ tại khu vực thôn Km15, xã Bản Lầu, huyện Mường Khương bắt quả tang Giàng Seo K và Lý A P có hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Tổ công tác đưa Giàng Seo K và Lý A P cùng toàn bộ đồ vật, tài sản về UBND xã Bản Lầu để kiểm tra. Tại đây Lý A P tự giác lấy trong túi vải mầu đen đang đeo trên người ra, giao nộp 02 bọc nilon mầu đen và khai nhận là Heroine; kiểm tra 02 bọc nilon mầu đen, phát hiện 01 bọc có chứa 06 bánh hình hộp chữ nhật, 01 bọc chứa 10 bánh hình hộp chữ nhật, mỗi bánh bên ngoài được bọc bằng nhiều lớp nilon và giấy chống ẩm, trong cùng là chất bột khô mầu trắng. Lý A P và Giàng Seo K khai nhận là ma túy của Sùng Seo P, đang vận chuyển đi bán, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Mở rộng điều tra, tiến hành bắt giữ Sùng Seo P, Sùng Seo D và Hồ Trung Hiếu; ngày 12/6/2019, Giàng A C đầu thú; ngày 14/6/2019, Nguyễn Quang T đầu thú về hành vi phạm tội.

Bản Kết luận giám định số 145/GĐMT ngày 17/6/2019 của Công an tỉnh Lào Cai, kết luận: 16 (mười sáu) bánh chất bột khô, màu trắng gửi giám định có tổng khối lượng là 5.636,58 gam, đều là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin), bánh có khối lượng cao nhất là 357,13 gam, bánh có khối lượng thấp nhất là 350,16 gam.

Quá trình điều tra xác định: Sùng Seo P có quen biết một người đàn ông tên Chinh nhà ở khu vực Km 8, thị trấn Phố Lu, huyện T, tỉnh Lào Cai. Khoảng cuối năm 2018, Chinh gọi điện bảo Páo tìm người vận chuyển ma túy từ nước Lào đến tỉnh Lào Cai, Chinh cho Páo nick messenger của người đàn ông tên Đơ, quốc tịch Lào. Tháng 5 năm 2019, Páo sang Viên Chăn - Lào chơi. Tại đây, Páo gặp Đơ và một người đàn ông tên Đằng trao đổi về việc vận chuyển ma túy sang Lào Cai - Việt Nam, Đơ điện thoại trao đổi với một người đàn Lào (ông chủ ma túy), nói có người vận chuyển ma túy đi Lào Cai và Đơ sẽ sang Việt Nam gặp trước, còn chủ có ma túy sẽ đi sau. Do trước đó có quen biết với Nguyễn Quang T, ngày 20/5/2019, Páo gọi điện thuê Tiến vận chuyển ma túy đi Lào Cai, Tiến đồng ý và hẹn gặp nhau tại tỉnh Nghệ An để thống nhất việc vận chuyển.

Ngày 23/5/2019, Páo từ Lào về Việt Nam qua cửa khẩu Cầu Treo, thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đến tỉnh Nghệ An để gặp Tiến. Nguyễn Quang T sau khi đồng ý vận chuyển ma túy cho Páo, Tiến đã rủ Hồ Trung Hiếu cùng tham gia, Hiếu đồng ý. Khoảng ngày 24/5/2019, Tiến cùng Hiếu đi đến thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An gặp Páo và ba người nam giới người Lào (Páo khai là Đơ, Đằng và ông chủ có ma túy), bàn bạc về việc vận chuyển ma túy và thỏa thuận giá là 500.000.000 VNĐ (năm trăm triệu đồng), phương tiện do Tiến sắp xếp, vận chuyển từ khu vực cửa khẩu Cầu Treo, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đến tỉnh Lào Cai.

Sau khi thống nhất với Páo và chủ ma túy, Tiến thông báo lại cho Hiếu biết giá vận chuyển. Sau đó, Páo đưa Đơ, Đằng cùng Hiếu và Tiến đến nhà ở của Tiến tại xóm 7, xã S, huyện L, Nghệ An. Tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Sùng Seo P cùng chủ ma túy người Lào đưa trước cho Tiến 70.000.000 VNĐ tiền công để Tiến lấy tiền đi đường, nói số còn lại sẽ trả sau khi giao ma túy xong. Chiều ngày 27/5/2019, Tiến đến Công ty TNHH Hiệp Sương, thành phố Vinh, Nghệ An thuê xe ô tô bán tải BKS 37C - 225.30, đi từ Nghệ An đến cửa khẩu Cầu Treo, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh và đến Lào Cai là 13.500.000 đồng.

Sáng ngày 28/5/2019, Nguyễn Văn Hùng điều khiển xe ô tô BKS 37C – 225.30 đưa Tiến, Hiếu và chủ ma túy người Lào lên cửa khẩu Cầu Treo, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Khi đi, Tiến và Hiếu nói với Nguyễn Văn Hùng là đi mua máy xúc cũ. Đến nơi, Tiến nhận túi đựng 20 bánh Heroine từ hai người nam giới nước Lào, rồi cùng Hiếu lên xe ô tô của Nguyễn Văn Hùng đi Lào Cai. Trên đường đi, Tiến đưa cho Hiếu 25.000.000 đồng. Cùng ngày 28/5/2019, Páo cùng Đơ và Đằng đi xe ô tô từ Nghệ An lên Lào Cai trước, còn chủ ma túy người Lào đi xe khách lên Lào Cai sau. Đến tối cùng ngày, Páo và 03 người Lào (Đơ, Đằng và chủ ma túy) đến Lào Cai thuê nhà nghỉ tại khu vực đường đi hướng Sa Pa. Sùng Seo P liên hệ với Chinh, thông báo là đã vận chuyển 20 bánh Heroine đến Lào Cai. Chinh nói đang bên Trung Quốc, nên Chinh cho Páo số điện thoại của Giàng Seo K để Páo liên lạc giao dịch mua bán với Ký. Páo liên lạc với Giàng Seo K và thống nhất giá bán là 110.000.000 đồng/01 bánh Heroine. Sau đó, ngày 29/5/2019, Páo đến nhà Sùng Seo D để nhờ Dỳ cất giấu hộ ma túy, Páo sẽ trả công, Sùng Seo D đồng ý. Páo lấy số điện thoại của Sùng Seo D gửi cho Nguyễn Quang T, để Tiến liên lạc và giao ma túy cho Dỳ cất giấu. Khoảng 20 giờ ngày 29/5/2019, Nguyễn Quang T và Hồ Trung Hiếu được Nguyễn Văn Hùng lái xe đưa đến gặp và giao cho Sùng Seo D túi đựng 20 bánh ma túy tại khu vực Thôn S, xã P. Nhận ma túy xong, Sùng Seo D mang về nhà mở ra kiểm tra thấy bên trong có 20 bánh Heroine, Dỳ mang cất giấu vào tủ đựng quần áo của gia đình. Sùng Seo D và Nguyễn Quang T đều gọi điện thông báo cho Sùng Seo P biết, sau đó Tiến, Hiếu bảo Hùng đưa về thành phố Lào Cai. Đến ngày 01/6/2019, thì Tiến, Hiếu bảo Hùng về thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trả xe ô tô cho Công ty TNHH Hiệp Sương.

Ngày 30/5/2019, Sùng Seo P gọi điện cho Giàng A C, hẹn gặp tại khu vực bến xe phường Phố Mới, thành phố Lào Cai. Khi gặp Chống, Páo nhờ Giàng A C tìm người mua ma túy và giới thiệu cho Páo, giá bán là 115 triệu đồng/01 bánh, Páo sẽ trả tiền công. Giàng A C đồng ý và gọi điện thoại cho Seo Pi (người Trung Quốc) nói có ma túy bán, Seo Pi đồng ý mua, Giàng A C điện cho Páo nói có người mua 02 bánh, Páo cho Giàng A C số điện thoại của Sùng Seo D để Chống gặp và nhận ma túy. Khoảng 21 giờ ngày 31/5/2019, Sùng Seo D giao cho Giàng A C 01 bánh Heroine, khoảng 04 giờ ngày 01/6/2019 Sùng Seo D tiếp tục giao 01 bánh Heroine nữa cho Giàng A C và Giàng A C đưa cho Sùng Seo D số tiền 115.000.000 đồng, Sùng Seo D mang 110.000.000 đồng ra thành phố Lào Cai đưa cho Páo, Páo đưa lại cho Dỳ 200.000 đồng. Cũng trong buổi sáng ngày 01/6/2019, sau khi bán được ma túy, Giàng A C mang 114.000.000 đồng đưa cho Páo tại thành phố Lào Cai (Chống giữ lại 1.000.000đồng), Páo đưa cho Chống 2.000.000 đồng.

Trưa ngày 03/6/2019, Páo đến Phòng giao dịch Phan Đình Phùng, thuộc Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh Sa Pa thuộc phường Phố Mới, thành phố Lào Cai, chuyển 200.000.000đồng cho Nguyễn Quang T. Páo gọi điện cho Tiến nói tiền công vận chuyển ma túy, số tiền còn lại hẹn khi nào bán xong ma túy sẽ trả hết. Ngay sau khi Páo thông báo đã chuyển tiền, Tiến đến Ngân hàng rút hết số tiền Páo vừa chuyển, Tiến đưa cho Hiếu 50.000.000 đồng, còn lại Tiến tiêu sài.

Đối với Giàng Seo K, sau khi thống nhất với Sùng Seo P, Giàng Seo K đã liên lạc với Lý A P rủ Páo tìm mối bán ma túy. Ngày 04/6/2019, Lý A P tìm được 02 người mua ma túy là Sẻng và Say, nên Lý A P gọi điện cho Sùng Seo P (Theo số điện thoại Ký cho) đến nhà bàn bạc về việc mua bán. Sau đó Sùng Seo P, Giàng Seo K đến nhà Lý A P bàn bạc việc mua bán ma túy với Sẻng và Say. Tại đây, cả nhóm thống nhất số lượng ma túy là 18 bánh Heroine và giá bán là 110.000.000 đồng/01 bánh. Thống nhất xong Sẻng và Say đi về, Sùng Seo P đưa số điện thoại của Sùng Seo D cho Giàng Seo K, để Ký liên lạc nhận ma túy mang đi bán cho Sẻng và Say.

Khoảng 21 giờ cùng ngày, Lý A P cùng Giàng Seo K đi xe mô tô của Giàng Seo K đến nhận 01 túi đựng 18 bánh Heroine từ Sùng Seo D, tại khu vực cầu sắt thuộc Thôn S, xã P, huyện T. Nhận xong, Lý A P và Giàng Seo K vận chuyển ma túy đi đến nhà Say giao cho Say và Sẻng. Do Say không trả tiền như đã hẹn, nên ngày 06/6/2019, Lý A P và Giàng Seo K đã đến nhận lại 18 bánh Heroine mang về cất giấu tại nhà Giàng Seo K.

Do không bán được ma túy, nên Sùng Seo P gọi điện cho Giàng A C nhờ bán hộ 02 bánh ma túy, Giàng A C điện cho Seo Pi, Seo Pi đồng ý. Sùng Seo P gửi số điện thoại của Giàng Seo K cho Chống để nhận ma túy, tối ngày 08/6/2019, Giàng A C liên lạc với Giàng Seo K, sau đó cùng Seo Pi đi xe mô tô đến nhận 02 bánh Heroine từ Giàng Seo K và Lý A P tại khu vực Thôn Nậm T, xã C, huyện T, tỉnh Lào Cai. Giàng A C gọi điện cho Sùng Seo P hẹn khi nào Seo Pi trả tiền thì sẽ mang trả cho Sùng Seo P.

Khoảng ngày 09/6/2019, Sùng Seo P gặp một người nam giới tên là Páo (do Đơ giới thiệu), Sùng Seo P đã đưa Páo đến nhà Giàng Seo K để bàn bạc về việc mua bán 16 bánh Heroine còn lại. Do Giàng Seo K nói có biết người này, nên Sùng Seo P đồng ý bán ma túy và giao cho Giàng Seo K thực hiện việc mua bán. Khoảng 20 giờ ngày 11/6/2019, Giàng Seo K cùng Lý A P vận chuyển 16 bánh Heroine đựng trong túi vải mầu đen đi bán cho Páo. Khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực thôn Km15, xã Bản Lầu, huyện Mường Khương thì Giàng Seo K và Lý A P bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 33/2019/HSST ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai, đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Sùng Seo P, Sùng Seo D, Giàng Seo K, Lý A P, Giàng A C phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”; Các bị cáo Nguyễn Quang T, Hồ Trung Hiếu phạm tội: “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Sùng Seo P: Tử hình; Xử phạt bị cáo Sùng Seo D: Tử hình; Xử phạt bị cáo Giàng Seo K: Tử hình. Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T: Tử hình; Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lý A P tù Chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 11/6/2019.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Trung Hiếu tù Chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 23/6/2019.

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; khoản 2 Điều 51; Điều 17, 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Giàng A C tù Chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 12/6/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 18/11/2019, bị cáo Sùng Seo D có đơn kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Ngày 20/11/2019, bị cáo Giàng Seo K, bị cáo Nguyễn Quang T có đơn kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K xin rút toàn bộ đơn kháng cáo.

Bị cáo Nguyễn Quang T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của bị cáo, kết luận: các bị cáo Sùng Seo D, Giàng Seo K bị xử phạt về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Nguyễn Quang T bị xử phạt về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”, theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K tự nguyện rút đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348, điểm đ khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K, bản án sơ thẩm có hiệu lực đối với bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K. Đối với bị cáo Nguyễn Quang T, do không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K có quan điểm: Việc bị cáo Sùng Seo D; Giàng Seo K bị xử phạt về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa, các bị cáo tự nguyện rút đơn kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Quang T có quan điểm: Việc bị cáo Nguyễn Quang T bị xử phạt về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”, theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự là đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo thiếu hiểu biết pháp luật, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo đầu thú, quá trình điều tra thành khẩn nhận tội, phần lớn số ma túy được thu hồi ngay chưa phát tán ra ngoài xã hội, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống mức tù Chung thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của các bị cáo gửi trong thời hạn luật định, được cấp phúc thẩm chấp nhận.

[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Sùng Seo D; Giàng Seo K; Nguyễn Quang T thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai nhận tội của các bị cáo Sùng Seo P, Lý A P, Giàng A C và bị cáo Hồ Trung Hiếu tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp lời khai của người làm chứng, biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ kết luận: Do hám lời, trong khoảng thời gian từ ngày 27/5/2019 đến ngày 30/5/2019, bị cáo Sùng Seo P đã thuê Nguyễn Quang T, Hồ Trung Hiếu vận chuyển trái phép 20 bánh Heroine, khối lượng 7.037,22gam, từ khu vực cửa khẩu Cầu Treo, thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đến tỉnh Lào Cai để Sùng Seo P bán kiếm lời. Nguyễn Quang T, Hồ Trung Hiếu vận chuyển 20 bánh Heroine, khối lượng 7.037,22 gam đến Lào Cai cho Sùng Seo P. Sùng Seo P nhờ Sùng Seo D cất giấu và bán hộ. Sùng Seo D nhận 20 bánh Heroine, khối lượng 7.037,22 gam cất giấu, ngày 31/5/2019 và ngày 01/6/2019 Sùng Seo D trực tiếp giao 02 bánh Heroine có khối lượng 700,32 gam cho Giàng A C để Chống mang bán, còn lại 18 bánh Heroine, có khối lượng 6.336,90 gam, ngày 04/6/2019 Sùng Seo D giao cho Giàng Seo K và Lý A P để Ký, Lý A P mang đi bán. Giàng Seo K và Lý A P nhận 18 bánh Heroine, có khối lượng 6.336,90 gam đi giao cho Giàng A C 02 bánh Heroine, có khối lượng 700,32 gam vào ngày 08/6/2019 để Chống bán, còn 16 bánh Heroine đến ngày 11/6/2019, khi Giàng Seo K và Lý A P mang đi bán thì bị bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật. Giàng A C đã nhận 04 bánh Heroine, có khối lượng 1.400,64 gam, từ Sùng Seo D và Giàng Seo K mang đi bán. Với khối lượng ma túy mua bán, vận chuyển trái phép nêu trên, các bị cáo Sùng Seo P, Sùng Seo D, Giàng Seo K, Lý A P, Giàng A C bị Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”, theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Các bị cáo Nguyễn Quang T, Hồ Trung Hiếu bị xử phạt về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”, theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Tính chất hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, chỉ vì hám lợi về vật chất, bất chấp quy định của pháp luật, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, chất gây nghiện; góp phần gây ra tệ nạn ma túy, làm hủy hại cho sức khỏe của người sử dụng, gây tác hại tiêu cực về nhiều mặt trong đời sống xã hội, còn là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó, phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với các bị cáo, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, đối với loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm này trong tình hình hiện nay.

[4]. Trong vụ án: Bị cáo Sùng Seo P bị xử phạt: Tử hình; các bị cáo Lý A P, bị cáo Hồ Trung Hiếu, bị cáo Giàng A C đều bị xử phạt: Tù Chung thân, các bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị. Do vậy, quyết định bản án sơ thẩm đối với các bị cáo đã có hiệu lực pháp luật, không thuộc thẩm quyền xem xét của cấp phúc thẩm.

[5]. Xét việc rút đơn kháng cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Sùng Seo D, bị cáo Giàng Seo K rút đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy, việc rút đơn kháng cáo của bị cáo Dỳ, bị cáo Ký là hoàn toàn tự nguyện, đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348, điểm đ khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận yêu cầu rút kháng cáo và đình chỉ việc xét xử phúc thẩm, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K.

[6]. Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T: Xét thấy, bị cáo Nguyễn Quang T khi được Sùng Seo P thuê vận chuyển ma túy, Tiến trực tiếp nhận và vận chuyển 20 bánh Heroine, khối lượng 7.037,22 gam, từ cửa khẩu Cầu Treo, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đến tỉnh Lào Cai cho Páo, khi nhận vận chuyển, Tiến còn là người rủ rê Hồ Trung Hiếu cùng tham gia vận chuyển, Tiến đã nhận được tiền công vận chuyển số tiền 270.000.000đồng, nên Tiến phải chịu trách nhiệm chính về hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Mặc dù, sau khi phạm tội, bị cáo Tiến đầu thú, thành khẩn khai báo, bố đẻ bị cáo có công với cách mạng, cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét khi quyết định phần hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, với khối lượng ma túy mà Tiến vận chuyển là rất lớn, trong khi tình hình tội phạm về ma túy diễn biến phức tạp, việc mua bán, vận chuyển ma túy hết sức tinh vi, diễn ra liên tỉnh. Do vậy, việc áp dụng hình phạt cao nhất, loại trừ bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là cần thiết, nhằm có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Trên cơ sở đánh giá khách quan, đầy đủ các chứng cứ của vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đúng tính chất, hành vi, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình hình đấu tranh phòng chống với loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm này, xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T hình phạt Tử hình là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo ăn năn hối cải, trình bày từ trước đến nay không vi phạm pháp luật gì; nhân thân không có tiền án, tiền sự; không hiểu biết pháp luật; gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, gia đình có công với cách mạng. Xét thấy, những căn cứ bị cáo đưa ra đã được cấp sơ thẩm cân nhắc, xem xét. Ngoài tình tiết giảm nhẹ đã áp dụng, bị cáo không được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Mặt khác, như đã nêu trên, khối lượng ma túy mà bị cáo vận chuyển là rất lớn, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là thỏa đáng. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. Vì vậy, quan điểm của các Luật sư bào chữa cho bị cáo, đề nghị chấp nhận kháng cáo và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Quang T, không có cơ sở và không được cấp phúc thẩm chấp nhận.

[7]. Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở và được chấp nhận.

[8]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quang T kháng cáo không được chấp nhận, phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định; Các bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K không phải nộp án phí hính sự phúc thẩm.

[9] Về quyết định khác: Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 1 Điều 348, điểm đ khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đối với bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đối với bị cáo Nguyễn Quang T; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K. Bản án Hình sự sơ thẩm số 33/2019/HSST ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai có hiệu lực pháp luật, đối với bị cáo Sùng Seo D và bị cáo Giàng Seo K.

2. Không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số 33/2019/HSST ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai, đối với Nguyễn Quang T.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 40, Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang T: Tử hình, về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”; Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Quang T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm. Các bị cáo Sùng Seo D, bị cáo Giàng Seo K không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trong hạn 07 (bảy) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Sùng Seo D, bị cáo Giàng Seo K, bị cáo Nguyễn Quang T có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xin ân giảm án tử hình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý số 330/2020/HS-PT

Số hiệu:330/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về