Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 173/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 173/2023/HS-PT NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 03 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 916/2022/TLPT- HS ngày 21 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo Huỳnh Quan T, Trần Thúy V do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2022/HSST ngày 21/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ.

Bị cáo có kháng cáo:

1/ Huỳnh Quan T; sinh ngày 28 tháng 01 năm 1994, tại Tiền Giang; nơi cư trú: số 610 Chung cư 234, đường PVT, phường 11, quận BT, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn D và bà Phan Thị Thanh M; Bị cáo có vợ và 02 con (lớn sinh năm 2017, sinh năm 2019); Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 10/01/2022 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ Trần Thúy V; sinh ngày 20 tháng 8 năm 1998, tại Bình Dương; Nơi cư trú: 184/28/13 L, phường T, quận BT, thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Tổ 9, xã V, huyện BC, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Thợ làm tóc; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Phước T và bà Trần Phượng H; Bị cáo chưa có chồng, con; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 10/01/2022 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho các bị cáo:

1/ Luật sư Nguyễn Văn Đ – Đoàn luật sư thành phố Cần Thơ bào chữa cho bị cáo Huỳnh Quan T (Có mặt).

2/ Luật sư Vũ Ngọc C – Đoàn luật sư thành phố Cần Thơ bào chữa cho bị cáo Trần Thúy V (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Quan T và người tên Th (không rõ nhân thân) quen biết nhau qua mạng xã hội Facebook. Vào ngày 08/01/2022 Th có liên lạc với T qua ứng dựng Messenger trên Facebook nhờ T qua hẻm 149 Nguyễn Văn Luôn, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh lấy một gói đồ đem về Cà Mau cho Th, Th sẽ chỉ cho T cách kinh doanh cua Cà Mau nên T đồng ý. Đến khoảng 19 giờ ngày 08/01/2022, T đến hẻm 149 đợi khoảng 15 phút thì có một thanh niên lạ mặt đến quăng một gói đồ màu đen xuống đất, T đến nhặt gói đồ lên và đem về nhà. Sáng ngày 09/01/2022, T có rủ bạn gái là Trần Thúy V cùng đi xuống Cà Mau để giao gói đồ cho Th, V đồng ý. Đến khoảng 10 giờ ngày 09/01/2022, T và V đón xe từ thành phố Hồ Chí Minh đi xuống Cà Mau, khi đi T có đem theo một gói ma túy nhỏ để sử dụng. Khoảng 18 giờ, đến Cà Mau thì T thuê khách sạn cho V ở, còn T đón xe ôm để đi giao gói đồ cho Th, sau khi nhận gói đồ Th mở gói đồ lấy ra các gói màu trắng bên trong. Sau khi mở gói đồ ra thì Th nói với T “mày trộn đồ của tao phải không, trộn ma túy của tao phải không” rồi Th để ma túy lại vào trong gói đồ, kêu T cầm về khách sạn. Khoảng 30 phút sau, Th đến khách sạn gặp và đưa cho T 600.000 đồng, nói với T là lấy để trả tiền xe và kêu T cầm gói đồ về Cần Thơ sẽ có người liên lạc với T để lấy ma túy. Sau đó, T vào khách sạn mở gói đồ ra cho V xem, bản thân V có sử dụng ma túy nên khi T mở gói đồ ra thì V biết gói đồ là ma túy nhưng vẫn đồng ý với T vận chuyển số ma túy trên về Cần Thơ. Đồng thời, lúc này T đưa cho V 2.000.000 đồng và nói với V trong số tiền trên thì có 600.000 đồng của Th đưa để cho V chi trả tiền xe và ăn uống từ Cà Mau về Cần Thơ. Đến sáng ngày 10/01/2022, T và V bắt xe từ Cà Mau về Cần Thơ.

Khi đến Cần Thơ, T vào nhà nghỉ Hoàng Nam 3 thuộc khu vực 5, phường Hưng Thạnh, quận Cái Răng để thuê phòng nghỉ thì bị Công an kiểm tra thu giữ các tang vật sau: 01 gói giấy bên trong có chứa 01 gói ny long không màu nẹp miệng chứa tinh thể không màu và 01 gói ny long không màu nẹp miệng chứa tinh thể không màu; 01 điện Th di động Samsung CEO168, kèm sim số 0788577850 và 0337785711 đã qua sử dụng; tiền Việt Nam: 500.000 đồng; 01 cái phễu bằng thủy tinh dùng để sử dụng ma túy; 01 cây kéo bằng kim loại; 01 ống hút nhựa màu trắng; 01 túi xách màu đen có chữ Adidas.

Tại Kết luận giám định số 60/KLGĐ-PC09 ngày 17/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói ni lon gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 30,9401 gam.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 41/2022/HS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ quyết định:

Căn cứ điểm điểm b khoản 3 Điều 250; Điều 17; 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt Huỳnh Quan T 17 (Mười bảy) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”;

Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2022.

Xử phạt Trần Thúy V 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”;

Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/9/2022, bị cáo Trần Thúy V và ngày 29/09/2022 bị cáo Huỳnh Quan T đã kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

1. Phần xét hỏi:

Bị cáo Huỳnh Quan T giữ nguyên kháng cáo và trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về đoàn tụ với gia đình, phụng dưỡng cha, mẹ và trở thành công dân lương thiện.

Bị cáo Trần Thúy V xin được tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo của mình và đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án đối với bị cáo để bị cáo sớm được chấp hành bản án.

2. Phần tranh luận - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Đối với việc bị cáo Trần Thúy V xin được tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự để đình chỉ đối với kháng cáo của bị cáo Trần Thúy V.

Đối với kháng cáo của bị cáo Huỳnh Quan T: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Huỳnh Quan T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo Huỳnh Quan T kháng cáo nhưng không có tình tiết, chứng cứ mới đặc biệt để làm thay đổi vụ án. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên hình phạt 17 năm tù đối với bị cáo Huỳnh Quan T là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo Huỳnh Quan T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Phần đối đáp của luật sư bào chữa cho bị cáo Huỳnh Quan T: Không tranh luận về tội danh và khung hình phạt mà Viện kiểm sát quy kết đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo ở mức án đầu khung của khoản 3 tội danh “Vận chuyển trái phép chất ma túy” vì khối lượng ma túy mà bị cáo vận chuyển là 30,9401 gam, loại Methamphetamine tương đương với định khung tối thiếu của khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa cho các bị cáo Huỳnh Quan T giữ nguyên quan điểm về phần tranh tụng của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.

3. Phần bị cáo nói lời sau cùng:

Bị cáo Huỳnh Quan T đã ăn năn, hối cãi về hành vi phạm tội của mình, mong sớm được chấp hành xong hình phạt tù để đoàn tụ với gia đình, phụng dưỡng cha mẹ, làm lại cuộc đời, là người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Các bị cáo Huỳnh Quan T, Trần Thúy V có đơn kháng cáo và đã thực hiện việc kháng cáo đúng quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Huỳnh Quan T, Trần Thúy V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra Công an thành phố Cần Thơ thu thập có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:

[2.1] Bị cáo Huỳnh Quan T vì lợi ích các nhân nên đã nhận lời vận chuyển ma túy cho một đối tượng tên Th (không rõ lai lịch), bị cáo T rủ bạn gái là bị cáo Trần Thúy V đi cùng thì bị cáo V đồng ý. Ngày 09/01/2022, bị cáo T và bị cáo V vận chuyển ma túy từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Cà Mau, sau đó vận chuyển từ Cà Mau về Cần Thơ. Khi ở khách sạn tại Cà Mau, bị cáo T mở gói đồ cho bị cáo V xem, bản thân bị cáo V có sử dụng ma túy nên khi bị cáo T mở gói đồ ra thì bị cáo V biết gói đồ là ma túy nhưng vẫn đồng ý cùng bị cáo T vận chuyển về Cần Thơ. Sáng ngày 10/01/2022, bị cáo T vào nhà nghỉ Hoàng Nam 3 thuộc khu vực 5, phường Hưng Thạnh, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ để thuê phòng nghỉ thì bị bắt quả tang. Tại Kết luận giám định số 60/KLGĐ-PC09 ngày 17/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói ni long gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 30,9401 gam.

Vì vậy, bị cáo Huỳnh Quan T và bị cáo Trần Thúy V phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy” với tổng khối lượng ma túy bị thu giữ là 30,9401 gam, loại Methamphetamine.

Các bị cáo nhận thức được việc vận chuyển trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo biết rất rõ ma túy là một tệ nạn xã hội nguy hiểm, không chỉ hủy hoại sức khỏe con người, mà còn là nguồn gốc làm phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức coi thường và bất chấp pháp luật.

Vụ án có đồng phạm, hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an, làm gia tăng tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng, chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác.

[2.2] Với hành vi nêu tại mục [2.1], Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Huỳnh Quan T, Trần Thúy V phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Huỳnh Quan T [3.1] Bị cáo T là người chủ mưu, khởi xướng, lôi kéo bị cáo V cùng vận chuyển ma túy nên tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo T có vai trò chính trong vụ án là đúng. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo T không có tình tiết tăng nặng và áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), từ đó xử phạt bị cáo T 17 (Mười bảy) năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo T thực hiện.

[3.2] Quá trình tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết mới đặc biệt làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, cũng như đề nghị của người bào chữa cho bị cáo T. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm của là có căn cứ chấp nhận.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Thúy V Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Thúy V đã tự nguyện rút toàn bộ kháng cáo của mình. Do đó, Hội đồng xét xử đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát về việc đình chỉ đối với kháng cáo của bị cáo Trần Thúy V.

[5] Tuy nhiên, Bản án cấp sơ thẩm có thiếu xót về điều khoản áp dụng đối với các bị cáo. Cụ thể, bị cáo Huỳnh Quan T và Trần Thúy V bị cấp sơ thẩm tuyên phạt hình phạt bổ sung 10 triệu đồng nhưng không đưa ra điều khoản áp dụng là điều khoản nào. Tòa sơ thẩm rút kinh nghiệm, cần ghi rõ áp dụng khoản 5 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt hình phạt bổ sung đối với tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

[6] Qua lời khai của các bị cáo và các chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện bị cáo T mang theo hai gói ma túy. Trong đó gói nhỏ là để hai bị cáo sử dụng, gói còn lại là vận chuyển theo yêu cầu của đối tượng tên Th. Việc cất giữ gói ma túy nhỏ trên người nhằm mục đích sử dụng đó là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lẽ ra khi thu giữ để tiến hành giám định thì phải giám định riêng từng gói ma túy để xác định loại ma túy và hàm lượng ma túy, từ đó xác định tội danh tương ứng đối với hành vi, đồng thời xác định khung hình phạt. Tuy nhiên, khi giám định cơ quan chuyên môn đã hòa lại là có phần khó khăn cho việc xác định tội danh và khung hình phạt trong vụ án này, tổng khối lượng ma túy là 30,9401 gam loại Methamphetamine là đã bao gồm hai gói ma túy. Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm tránh bỏ lọt tội phạm đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ đã có Công văn số 293/VKS-P1 ngày 05/9/2022 thể hiện “…Sau khi giám định, số ma túy còn lại được niêm phong lại chung một gói. Vì thế không thể tiến hành xác định được khối lượng ma túy của từng gói theo yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa, không xác định được khối lượng thì không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy..”. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không xét xử về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đối với các bị cáo là phù hợp. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Cần Thơ cần rút kinh nghiệm về việc này.

[7] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[8] Án phí hình sự phúc thẩm:

Do bị cáo Huỳnh Quan T không được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Thúy V rút toàn bộ kháng cáo nên không phải chịu theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điều 348, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần hình phạt của bị cáo Trần Thúy V phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Giữ nguyên phần hình phạt của bị cáo Trần Thúy V tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 41/2022/HS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Quan T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2022/HS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ.

Căn cứ b khoản 3, khoản 5 Điều 250, Điều 17, 38; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Huỳnh Quan T 17 (Mười bảy) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”;

Thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2022. Phạt bổ sung 10.000.000 đồng.

2. Tiếp tục giam giữ các bị cáo Huỳnh Quan T, Trần Thúy V để đảm bảo thi hành án.

3. Kiến nghị tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ đối tượng tên Th để xử lý theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Huỳnh Quan T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

- Bị cáo Trần Thúy V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 173/2023/HS-PT

Số hiệu:173/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về