Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 133/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 133/2024/HS-PT NGÀY 16/04/2024 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2024, tại Điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối Điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử trực tuyến phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 138/2024/TLPT-HS ngày 28 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn Trí Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2024/HS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Trí Đ, sinh ngày 22/8/2003 tại Bình Phước; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu phố F, phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Đầu bếp. Con ông Nguyễn Trí H, sinh năm 1979 (đã chết); Con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1980. Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q từ ngày 20/12/2022 cho đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trí Đ: Luật sư Trần Văn V – Văn phòng L, Đoàn Luật sư tỉnh Q; Địa chỉ: A N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 29/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông xảy ra tại Km 724+370 Quốc lộ A, thuộc địa phận thôn T, xã V, huyện V, tỉnh Quảng Trị. Tại hiện trường xác định có 01 xe mô tô Yamaha Sirius biển kiểm soát 73F1- 480.xx đang bị ngã trên lề đường; Lê Văn S, sinh năm 1993, trú tại Thôn A, xã L, huyện B, tỉnh Quảng Bình và Nguyễn Trí Đ, sinh năm 2003, trú tại khu phố F, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị bị thương nằm bất tỉnh trên đường, trên người Đ đang đeo 01 túi xách bằng da màu trắng đen, bên trong có một gói ni lông màu xanh chứa 05 túi ni lông nhỏ đựng nhiều viên nén màu hồng và màu xanh (nghi là ma túy). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tạm giữ số viên nén nêu trên.

Từ ngày 29/11/2022 đến ngày 13/12/2022, Nguyễn Trí Đ được cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện T1. Ngày 13/12/2022, sức khỏe của Đ đã ổn định, khi Cơ quan điều tra vào làm việc, Đ đã đầu thú và khai nhận về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy của mình.

Quá trình điều tra, Nguyễn Trí Đ khai nhận:

Đ làm đầu bếp tại quán cơm có địa chỉ số B đường T, phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Tối ngày 28/11/2022, Đ ngồi chơi cùng bạn tại thành phố Đ thì gặp Lê Văn S. Qua trò chuyện, S biết ngày hôm sau Đ vào thăm nhà tại thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, S cũng vào thành phố Đ lấy đồ cho người em nên rủ Đ cùng đi. Đ đồng ý. Khoảng 08 giờ 00 ngày 29/11/2022, S điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius biển kiểm soát 73F1- 480.xx đến đón và chở Đ vào thành phố Đ. Khoảng 09 giờ 30 cùng ngày, khi đến Kiệt C đường T, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, Đ xuống xe đi vào nhà ở phía trong kiệt, còn S điều khiển xe đi đâu không rõ. Khoảng 30 phút sau, S gọi điện cho Đ hỏi địa chỉ nhà Đ để chạy xe vào nhưng Đ nói S đứng ở ngoài đường Đ sẽ đi ra. Khi ra đến, Đ thấy S đang ngồi trên xe mô tô đợi trước Kiệt C đường T, S bảo Đ vào lấy đồ để ra luôn, Đ quay vào nhà lấy áo khoác mặc vào người, lấy túi xách đeo chéo trước ngực rồi đi ra vị trí S đang đợi. S lấy từ trong túi áo khoác đang mặc ra 01 gói ni lông màu xanh đưa cho Đ và nói ngồi sau cất vào túi xách cho anh với. Kiểm tra sơ bộ, Đ thấy bên trong gói ni lông có một lớp giấy màu trắng gói từ 04 đến 05 túi ni lông màu xanh được cố định bằng nhiều sợi dây cao su. Do có sử dụng ma túy loại hồng phiến, nên Đ biết bên trong mỗi túi ni lông có khoảng 200 viên và ngửi thấy có mùi thơm của ma túy loại hồng phiến. Đ hỏi S “lấy chi mà nhiều dữ ri”, S nói “lấy ra để lại cho thằng em”. S điều khiển xe chở Đ đi theo đường Q hướng ra tỉnh Quảng Bình. Khi đến Km724+370 Quốc lộ A thuộc thôn T, xã V, huyện V, tỉnh Quảng Trị, S điều khiển xe bất cẩn nên tự gây tai nạn giao thông, S và Đ bị thương bất tỉnh và được đưa đi cấp cứu. Ngày 13/12/2022, sau khi tỉnh lại, đảm bảo sức khỏe, Đ biết mình đang được điều trị tại Bệnh viện T1, nhận thức được hành vi sai trái của mình nên khi Cơ quan điều tra vào làm việc, Đ đã đầu thú, khai báo toàn bộ hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy mà mình đã thực hiện.

Bản Kết luận giám định số 1298/KL-KTHS ngày 06/12/2022 của Phòng K Công an tỉnh Q xác định: Các viên nén màu hồng thu giữ trong túi xách mà Nguyễn Trí Đ đang đeo trên người có khối lượng 91,3634g là ma túy loại Methaphetamine; các viên nén màu xanh có khối lượng 0,8190g không tìm thấy chất ma túy.

Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2024/HS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh QuảngTrị đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trí Đ phạm tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Trí Đ 16 (Mười sáu) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 20/12/2022).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 31/12/2023, bị cáo Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Luật sư đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đ. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trí Đ và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với các chứng cứ khác nên có đủ cơ sở xác định: Ngày 29/11/2022, bị cáo Nguyễn Trí Đ đã có hành vi vận chuyển trái phép 91,3634g ma túy loại Methamphetamine từ thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị ra thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm 06/2024/HS-ST ngày 19 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh QuảngTrị đã xét xử bị cáo Đ về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Trí Đ, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm về chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, mà còn gây mất an ninh trật tự xã hội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có tình tiết giảm nhẹ đó là bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Sau khi phạm tội bị cáo tự nguyện ra đầu thú, ông bà ngoại bị cáo có huân chương kháng chiến nên còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 16 năm tù là phù hợp, có tác dụng răn đe và ngăn ngừa tội phạm trong giai đoạn hiện nay.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trí Đ, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo Nguyễn Trí Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm.

2. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS; xử phạt bị cáo: Nguyễn Trí Đ 16 (Mười sáu) năm tù về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 20/12/2022).

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Trí Đ phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 133/2024/HS-PT

Số hiệu:133/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về