Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 10/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 10/2023/HS-ST NGÀY 22/11/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/11/2023, tại Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2023/TLST-HS ngày 26/10/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2023/QĐXXST-HS ngày 10/11/2023 đối với bị cáo:

Quàng Văn Q, sinh năm 2004 tại huyện S1, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã N, huyện S1, tỉnh Sơn La; số định danh cá nhân: 014204xxxxxx; nghề nghiệp: phụ xe; trình độ học vấn: lớp 09/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn D và bà Quàng Thị H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không có; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2023 cho đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Tòng Văn T, sinh năm 1977, nơi cư trú: Bản S2, xã S, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 10 giờ ngày 18/7/2023, tổ công tác Công an xã N2 phối hợp với Công an xã S làm nhiệm vụ tại khu vực bản S2, xã S, huyện Sốp Cộp đã phát hiện bắt quả tang Quàng Văn Q, sinh năm 2004 trú tại bản N, xã N, huyện S1, tỉnh Sơn La về hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa 09 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 26F1-010.12; 01 chiếc điện thoại di động màu đen, màn hình cảm ứng, nhãn hiệu iphone, đã qua sử dụng.

Ngày 19/7/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp đã bóc mở niêm phong, cân tịnh lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng. Kết quả cân tịnh: 09 viên nén màu hồng trong gói nilon màu xanh có tổng khối lượng 0,87 gam. Lấy 05 viên có khối lượng 0,5 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu Q, còn lại 04 viên có khối lượng 0,37 gam lưu kho ký hiệu Q1.

Kết luận giám định số 1789/KL-KTHS ngày 20/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu ký hiệu Q là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,50 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,87 gam; loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra, bị cáo Q đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Vào khoảng tháng 6 năm 2023, Quàng Văn Q vào ứng dụng Facebook thì thấy đăng hỗ trợ vay vốn. Q liên hệ và vay được 3.500.000 đồng từ tài khoản Zalo “T”. Ngày 18/7/2023, tài khoản Zalo “T” gọi cho Q và bảo lên khu vực Nghĩa trang liệt sĩ lấy hộ thùng xoài gửi đi Hưng Yên, Q đồng ý. Sau khi đến khu vực sau Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Sốp Cộp, Q gặp một người đàn ông không quen biết nói với Q chưa cắt được xoài và đưa cho Q một gói nilon màu xanh bảo Q mang về cho người đàn ông tên “T”. Q chưa kịp xem thì thấy người đàn ông đó đã bỏ đi. Q nhận biết được đó là ma túy và gọi qua ứng dụng Zalo cho “T” thì không liên lạc được. Một lúc sau, “T” gọi lại cho Q và nói cứ cầm gói ma túy về khu vực khuân viên Trung tâm huyện Sốp Cộp lấy 01 viên gạch đè lên thì sẽ có người đến lấy, đồng thời sẽ trừ công vào số nợ Q đã vay trước đó 3.500.000 đồng. Khi Q vận chuyển ma túy đến khu bản S2, huyện Sốp Cộp thì bị tổ công tác Công an xã N2 phối hợp với Công an xã S kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Về các đối tượng liên quan, quá trình điều tra xác định không phát hiện tài khoản Zalo nào tên “T”, ngoài lời khai của bị cáo không có căn cứ để xác định đối tượng có tài khoản zalo “T” và đối tượng giao ma túy cho bị cáo vận chuyển là ai nên không có căn cứ để xử lý.

Bản Cáo trạng số 63/CT-VKSSC ngày 26/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Quàng Văn Q về tội Vận chuyển trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi như nội dung Cáo trạng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Quàng Văn Q về tội Vận chuyển trái phép chất ma tuý và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 2 năm 2 tháng đến 2 năm sáu tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo, phong bì đựng vật chứng, túi nilon; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động; trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chiếc xe mô tô biển kiểm soát 26F1-010.12.

- Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhất trí với đề nghị của Kiểm sát viên về xử lý chiếc xe mô tô. Ý kiến của bị cáo: Nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: đã thực hiện đúng thẩm Q, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Ngày 18/7/2023, bị cáo Quàng Văn Q bị bắt quả tang về hành vi cất giấu trái phép 0,87 gam Methamphetamine. Bị cáo khai vận chuyển ma túy cho một người đàn ông không quen biết đã cho bị cáo vay 3.500.000 đồng với mục đích để được xóa nợ số tiền vay. Lời khai của bị cáo là thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc vận chuyển ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì được xóa nợ nên bị cáo vẫn thực hiện. Bị cáo cũng biết rõ tội vận chuyển trái phép chất ma túy có hình phạt nặng hơn tội tàng trữ trái phép chất ma túy và khẳng định bị cáo vận chuyển ma túy cho người khác. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo đã về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về các đối tượng có liên quan, Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp cần thiết nhưng không xác định được người đưa ma túy cho bị cáo và người nhờ bị cáo vận chuyển hộ ma túy để được xóa nợ. Ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh. Do vậy, không có cơ sở để điều tra, xử lý và bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với khối lượng ma túy bị phát hiện bắt giữ. Tuy nhiên, yêu cầu Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp tiếp tục điều tra, làm rõ các đối tượng này để xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải là người nghiện ma túy, có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội và ăn năn hối cải về hành vi của mình. Do vậy, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và hình phạt: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm minh để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 250 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có nghề nghiệp là phụ xe, không có tài sản riêng có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 0,37 gam Methamphetamine còn lại sau khi trừ mẫu giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy. Phong bì thư đựng vật chứng và túi nilon đựng ma túy là vật không còn giá trị sử dụng, cần tiêu hủy. Chiếc điện thoại bị cáo khai dùng để trao đổi việc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX biển kiểm soát 26F1-010.12 là của anh Tòng Văn T. Anh T không biết bị cáo mượn xe đi vận chuyển ma túy. Do vậy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp về việc trả lại chiếc xe mô tô cho anh T là có căn cứ chấp nhận.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Quàng Văn Q phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma tuý; xử phạt bị cáo Quàng Văn Q 26 (hai mươi sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/7/2023; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, điểm c khoản 1; khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín bằng giấy niêm phong, một mặt phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ: Quàng Văn Q - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 18/7/2023 tại khu vực bản S2, xã S, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Bên trong phong bì có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu xanh đựng ban đầu; 01 túi nilon màu trắng chứa 04 viên nén đồng dạng hình trụ tròn màu hồng có khối lượng 0,37 gam, ký hiệu Q1” - Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động màu đen, màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Iphone, đựng trong 01 (một) phong bì công thư do Bưu điện Việt Nam phát hành đã được niêm phong theo quy định. Một mặt phong bì ghi:

“Vật chứng thu giữ vụ: Quàng Văn Q, SN 2004, trú tại bản N, xã N, huyện S1, Sơn La về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 18/7/2023. Bên trong phong bì có 01 chiếc điện di động nhãn hiệu Iphone, màu đen, loại màn hình cảm ứng (đã qua sử dụng)”.

- Trả lại cho anh Tòng Văn T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX, màu sơn: Đỏ - đen - bạc; biển kiểm soát: 26F1-xxxxx; số khung: RLHJ 04325BY278882; số máy: JC43E6211222, đã qua sử dụng.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn Q.

4. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Quàng Văn Q có quyền kháng cáo bản án, anh Tòng Văn T có quyền kháng cáo phần bản án về xử lý vật chứng chiếc xe mô tô trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 22/11/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 10/2023/HS-ST

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về