Bản án về tội vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt vật liệu nổ số 90/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 90/2022/HS-ST NGÀY 14/12/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP, CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ

Ngày 14 tháng 12 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện H và Trại tạm giam Công an tỉnh T. Tòa án nhân dân huyện H mở phiên tòa trực tuyến xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2022/TLST-HS, ngày 18 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 88/2022/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên HOÀNG VĂN H (tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 07/11/1969 tại thành phố H, tỉnh Hà Giang;

- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 2, phường P, thành phố T, tỉnh T;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/10; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Thủ kho vật liệu nổ Công ty Cổ phần Công nghiệp Tân Hà;

- Họ tên cha: Hoàng Kim P (đã chết); Họ tên mẹ: Hoàng Thị Q, sinh năm 1941; Anh, chị, em ruột: Có 06 người, bị cáo là thứ 03;

- Họ tên vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1972; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2013;

- Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2022, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh T. Có mặt tại phiên tòa

+ Bị hại: Công ty cổ phần công nghiệp Tân Hà (Người đại diện theo pháp luật: Ông Tạ Quốc T – Chức vụ: Giám đốc; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Đức A – Nhân viên Công ty).

Địa chỉ Trụ sở Công ty: Tổ 6, phường T, thành phố T, tỉnh T.

Ông A có mặt tại phiên tòa

+ Người làm chứng:

1. Anh Tạ Ngọc Đ, sinh năm 1988, Địa chỉ: Thôn H, xã T, thành phố T, tỉnh T.

2. Ông Vũ Trọng T, sinh năm 1956, Địa chỉ: Tổ 10, phường N, thành phố T, tỉnh T.

(Anh Đ có mặt; Ông T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 5/2021, Hoàng Văn H, cư trú tại tổ 02, phường P, thành phố T, tỉnh T ký hợp đồng lao động với Công ty Cổ phần Công nghiệp Tân Hà (Địa chỉ tổ 6, phường Tân Hà, thành phố T, tỉnh T) với nhiệm vụ làm việc tại tổ cấu kiện, phân xưởng sản xuất bê tông thương phẩm. Ngày 02/8/2021, H được Giám đốc Công ty bổ nhiệm làm Thủ kho vật liệu nổ mỏ đá vôi Thái Sơn, thuộc thôn 4 Thái Bình, xã Thái Sơn, huyện H, tỉnh T.

Khoảng 21 giờ ngày 22/4/2022, H cùng ông Vũ Trọng T (là công nhân thực hiện bắn nổ mìn khai thác đá của Công ty cổ phần Công nghiệp Tân Hà) trú tại tổ 10, phường N, thành phố T, tỉnh T ăn tối tại quán ăn đêm của ông Hứa Văn H ở thôn 4 T, xã T. Trong khi ăn tối, H gặp một nam thanh niên tự giới thiệu tên là H nhà ở xã T, huyện Y đến mời uống rượu nói chuyện và trao đổi số điện thoại để liên lạc (Số điện thoại của H 038499xxxx, số điện thoại của H 086922xxxx), sau đó mọi người ra về. Trong 02 ngày, ngày 23 và ngày 24/4/2022, H nhận được nhiều cuộc điện thoại của H với nội dung trao đổi, hỏi mua thuốc nổ, kíp nổ với số lượng khoảng 10kg thuốc nổ và 40 kíp nổ để sử dụng vào mục đích đánh bắt cá trên sông. H nhất trí bán và nói giá thuốc nổ và kíp nổ là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).

Sáng ngày 25/4/2022, H xuất kho vật liệu nổ (H viết vào sổ tay theo dõi, không có phiếu xuất kho) giao cho anh Nguyễn Thành Đ trú tại Khu 1, xã H, huyện H, tỉnh Phú Thọ (là công nhân khoan lỗ nổ mìn của Công ty do ông T bảo đến nhận) 16kg thuốc nổ công nghiệp ANFO và 50 kíp nổ rồi vận chuyển xuống khu vực khai thác đá để sử dụng. Quá trình khoan lỗ để nổ mìn, do máy khoan bị hỏng, tổ nổ mìn không sử dụng hết thuốc nổ và kíp nổ đã xuất kho. Khoảng 11 giờ cùng ngày, ông T bảo anh Đ vận chuyển số vật liệu nổ không sử dụng hết gồm khoảng 09kg thuốc nổ và 15 kíp nổ mang về kho giao cho H. Sau khi nhận số vật liệu nổ trên từ anh Đ, H để ở cửa kho, không làm thủ tục nhập kho mà nảy sinh ý định chiếm đoạt để bán cho H. Vì số thuốc nổ, kíp nổ chưa đủ nên H vào kho lấy thêm một túi 25 kíp nổ và xúc thêm số thuốc nổ rơi vãi để ở trong kho mà H đã thu nhặt được những ngày trước đó (tổng được 11kg thuốc nổ và 40 kíp nổ). Do đã hẹn với H, khoảng 19 giờ cùng ngày, lợi dụng vắng người, H cho số vật liệu nổ và kíp nổ lấy được vào ba lô màu đen, lấy xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER biển số 22B1-xxxxx (xe của H) điều khiển xe vận chuyển số vật liệu nổ đến khu vực Km 31 đường T - Hà Giang để bán cho H thì bị Tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh T phát hiện và lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng toàn bộ tang vật.

* Tại Kết luận giám định số 2576/KL-KTHS ngày 26/4/2022 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận:

- Mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là thuốc nổ công nghiệp ANFO, mang nhãn hiệu Tổng Công ty hoá chất mỏ VinaComin sản xuất, thuộc nhóm vật liệu nổ, thường dùng trong khai khoáng, mở đường, mỏ lộ thiên… khối lượng là 11kg (mười một kilôgam).

- Mẫu vật ký hiệu M2 gửi giám định đều là kíp nổ điện vỏ nhôm, Kíp nổ điện vỏ nhôm là phụ kiện nổ, thuộc nhóm vật liệu nổ. Kíp nổ có tác dụng kích nổ thuốc nổ. Không đủ điều kiện để xác định nơi sản xuất số kíp nổ trên.

Ngoài ra trong quá trình điều tra, Cơ quan An ninh điều tra đã thu giữ 260 kíp nổ trong phòng làm việc của H tại nhà điều hành mỏ đá vôi và 440 kíp nổ tại vị trí ngăn để thuốc nổ, trong kho vật liệu nổ mỏ đá vôi Thái Sơn. Quá trình điều tra không đủ căn cứ kết luận H chiếm đoạt, tàng trữ 700 kíp nổ.

Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKSTQ-P2, ngày 17/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T đã truy tố bị cáo Hoàng Văn H về tội “Vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt vật liệu nổ”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 305 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Văn H tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình. Nội dung lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra.

Kết thúc phần hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với Hoàng Văn H theo tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H, phạm tội “Vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt vật liệu nổ”. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn H từ 3 năm đến 3 năm 3 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 26/4/2022).

+ Về hình phạt bổ sung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về trách nhiệm dân sự: Công ty cổ phần công nghiệp Tân Hà (đại diện là ông Bùi Đức A) không yêu cầu bị cáo Hoàng Văn H phải bồi thường thiệt hại nên không đề nghị HĐXX xem xét, giải quyết.

+ Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho Công ty cổ phần công nghiệp Tân Hà các tài sản gồm: 11kg thuốc nổ công nghiệp ANFO và 40 kíp nổ điện số 8 (đã được niêm phong bảo quản tại Kho vật liệu nổ của Chi nhánh Công nghiệp hóa chất mỏ H);

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER màu sơn đen bạc, biển số 22B1-xxxxx; số khung RLCJ5B9107Y017585; số máy 5B91-017585 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY A02S (đã được niêm phong) của bị cáo Hoàng Văn H.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Hoàng Văn H nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có tranh luận gì. Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là sai trái, bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện bị hại ông Bùi Đức Anh có ý kiến: Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình; Về trách nhiệm dân sự Công ty không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho Công ty; Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Công ty đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Về các vật chứng gồm 11kg thuốc nổ công nghiệp ANFO và 40 kíp nổ điện số 8, Công ty đề nghị trả lại các tài sản trên cho Công ty.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng : Biên bản khám nghiệm hiện trường; Biên bản khám xét khẩn cấp; Kết luận giám định; Lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 25/4/2022, tại mỏ đá vôi Thái Sơn thuộc thôn 4 Thái Bình, xã Thái Sơn, huyện H, tỉnh T của Công ty Cổ phần Công nghiệp Tân Hà. Bị cáo Hoàng Văn H (là Thủ kho vật liệu nổ của Công ty) đã lợi dụng việc anh Nguyễn Thành Đ trú tại khu 1, xã H, huyện H, tỉnh Phú Thọ (là công nhân của Công ty) trả lại số thuốc nổ, kíp nổ (khoảng 09kg thuốc nổ và 15 kíp nổ), do không dùng hết trong quá trình bắn nổ mìn. H không nhập kho theo quy định và đã lấy thêm thuốc nổ và 25 kíp nổ trong kho (tổng số thuốc nổ là 11kg và 40 kíp nổ) để mang đi bán cho H (không xác định họ tên, địa chỉ). Khoảng 19 giờ cùng ngày, H cho số vật liệu nổ và kíp nổ vào ba lô màu đen, sử dụng xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER biển số 22B1- xxxxx (xe cùa H) điều khiển xe vận chuyển số vật liệu nổ đến khu vực Km31 đường T - Hà Giang để bán cho H thì bị Tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh T lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng toàn bộ tang vật. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt vật liệu nổ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 305 Bộ luật hình sự.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T truy tố bị cáo về hành vi phạm tội “Vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt vật liệu nổ” là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét về tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng bị cấm, đồng thời còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt vật liệu nổ của Công ty Cổ phần Công nghiệp Tân Hà là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng do hám lời mà cố ý phạm tội nên cần phải xét xử bị cáo thật nghiêm minh và cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phục vụ công tác phòng chống tội phạm chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; Bị cáo có bố đẻ là ông Hoàng Kim P được tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba và Huy chương vì an ninh tổ quốc; Có mẹ đẻ là bà Hoàng Thị Q được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất và Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; Đại diện bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án khởi điểm trong khung đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh T đề nghị tại phiên toà là phù hợp, có căn cứ pháp luật.

[3] Về tố tụng: Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 305 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy bản thân bị cáo không có thu nhập ổn định và trong vụ án này bị cáo chưa được hưởng lợi từ hành vi phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, Công ty cổ phần công nghiệp Tân Hà (đại diện là ông Bùi Đức A) không yêu cầu bị cáo Hoàng Văn H phải bồi thường thiệt hại gì cho Công ty nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[6] Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh T đã tạm giữ: 11kg thuốc nổ công nghiệp ANFO; 40 kíp nổ điện số 8 (đã được niêm phong bảo quản tại Kho vật chứng quản lý vũ khí, vật liệu nổ thuộc Chi nhánh Công nghiệp hóa chất mỏ H); 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER màu sơn đen bạc, biển số 22B1-xxxxx; số khung RLCJ5B9107Y017585; số máy 5B91-017585 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY A02S (đã được niêm phong) của bị cáo Hoàng Văn H.

Hội đồng xét xử xét thấy:

- Đối với 11kg thuốc nổ công nghiệp ANFO và 40 kíp nổ điện số 8, đây là tài sản hợp pháp của Công ty cổ phần công nghiệp Tân Hà và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của Công ty cổ phần công nghiệp Tân Hà xin trả lại các tài sản trên nên cần trả lại các tài sản trên cho chủ sở hữu hợp pháp theo quy định.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER màu sơn đen bạc, biển số 22B1-xxxxx; số khung RLCJ5B9107Y017585; số máy 5B91-017585 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY A02S (đã được niêm phong) thu giữ của bị cáo Hoàng Văn H. Đây là công cụ, phương tiện mà bị cáo H dùng để thực hiện hành vi phạm tội và còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định.

[7] Trong quá trình điều tra bị cáo Hoàng Văn H khai bán thuốc nổ, kíp nổ cho một người đàn ông có tên là H nhà ở xã T, huyện Y, tỉnh T. Quá trình điều tra, Cơ quan An ninh điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người đàn ông tên H; xác định số điện thoại 0869.223.797 dùng để giao dịch mua bán vật liệu nổ với H đăng ký tên Lộc Thị H, sinh ngày 06/4/2001, trú tại xã X, huyện Y, tỉnh T. Chị H không thừa nhận đã đăng ký, sử dụng số điện thoại trên và không giao dịch mua bán thuốc nổ, kíp nổ như H khai nhận nên không có căn cứ xử lý nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[8] Đối với hành vi của Hoàng Văn H cất 700 kíp nổ không đúng quy định và hành vi của anh Tạ Ngọc Đ - Giám đốc điều hành mỏ đá vôi Thái Sơn thuộc Công ty Cổ phần Công nghiệp Tân Hà, quá trình quản lý đã thiếu kiểm tra, giám sát kho vật liệu nổ không phát hiện được H chiếm đoạt vật liệu nổ và cất 700 kíp nổ không đúng quy định. Do hành vi không cấu thành tội phạm, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh T ra quyết đinh tách hành vi và tài liệu liên quan trong vụ án hình sự số 02/QĐ-ANĐT ngày 01/11/2022 chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 Điều 305 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn H, phạm tội “Vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt vật liệu nổ”.

+ Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn H 3 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 26/4/2022).

2. Về vật chứng: Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho Công ty cổ phần công nghiệp Tân Hà các tài sản gồm: 11kg (Mười một kilôgam) thuốc nổ công nghiệp ANFO và 40 (Bốn mươi) kíp nổ điện số 8 (đã được niêm phong bảo quản tại Kho vật liệu nổ của Chi nhánh Công nghiệp hóa chất mỏ H, địa chỉ: Số nhà 500, đường Trường Chinh, thành phố T, tỉnh T);

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA JUPITER, màu sơn đen bạc, biển số 22B1-xxxxx; số khung RLCJ5B9107Y017585; số máy 5B91-017585, xe cũ đã qua sử dụng; kèm theo 01 chìa khóa điện, trong cốp xe không có tài sản gì, xe không có giấy tờ, có nhiều vết xước trên thân xe và 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY A02S, vỏ màu đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng (đã được niêm phong) của bị cáo Hoàng Văn H.

(Tình trạng như Biên bản giao vật chứng giữa Cơ quan An ninh Điều tra Công an tỉnh T với Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh T, lập ngày 02/12/2022).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

- Bị cáo Hoàng Văn H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Bị cáo, đại diện bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền được kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển, mua bán trái phép, chiếm đoạt vật liệu nổ số 90/2022/HS-ST

Số hiệu:90/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về