Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 53/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 05/09/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 30 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Bị cáo: Phan Minh P, sinh năm 1986; tại tỉnh Long An; Trú tại: Ấp S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ văn hóa: 06/12; Con ông Phan Văn H và bà Phạm Thị Kh; Bị cáo có vợ tên Phan Thị Thùy L; Bị cáo có 01 người con lớn sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Võ Thị Phi Y, sinh năm 1993 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

- Người chứng kiến:

+ Nguyễn Văn T, sinh năm 1965 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.

+ Phạm Thị C, sinh năm 1970 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Minh P, đăng ký thường trú: ấp S, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Long An là tài xế chở thuê ở khu vực huyện Đ, tỉnh Long An. Vào khoảng 23 giờ ngày 28/02/2022, Phan Minh P nhận được điện thoại 0383920843 của một người đàn ông tên D (không rõ họ tên, địa chỉ) thuê P vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu từ xã M, huyện Đ, tỉnh Long An về khu vực gần chùa M thuộc huyện C, tỉnh Bến Tre giao cho người tên T, với tiền công thoả thuận là 01 triệu đồng, P đồng ý, đến khoảng 04 giờ ngày 01/3/2022 P điều khiển xe ô tô biển số 62A-252.22, nhãn hiệu Huyndai (xe này P thuê của Võ Thị Phi Y) đến bãi đất trống gần khu vực cầu M thuộc xã M, huyện Đ, tỉnh Long An, một lúc sau thì có 02 người đàn ông điều khiển xe mô tô chở theo 06 túi nylon màu đen, chứa thuốc lá điếu nhập lậu đến bỏ vào trong cốp xe ô tô biển số 62A-252.22 của P rồi bỏ đi. Sau đó P chở số thuốc lá nhập lậu đến huyện C, tỉnh Bến Tre. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, khi P chở số thuốc lá trên đến huyện lộ 03, thuộc ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Vật chứng tạm giữ: 1900 bao thuốc lá (1200 bao SCOTT, 400 bao JET, 300 bao HERO) trong cốp xe xe ô tô biển số 62A-252.22; 01 xe ô tô biển số 62A- 252.22, nhãn hiệu Huyndai, loại Grand i10, màu bạc; 01 bản pho to giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 62007330 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Long An cấp ngày 20/12/2021; 01 giấy chứng nhận kiểm định số 8267365 do Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới - Sở giao thông vận tải tỉnh Long An cấp; 01 giấy phép lái xe hạng E số 790107018227 do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu trắng đen, có gắn 02 sim của số thuê bao 0859534479 và 0971647219; 01 điện thoại di động hiệu Oppo, loại Reno 5, màu đen có gắn 01 sim số thuê bao 0972951929; 06 túi nylon màu đen bị xé rách; số tiền 1.000.000 đồng.

Cáo trạng số 48/CT-VKSCT ngày 11/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo Phan Minh Phụng về “Tội vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Hình phạt chính: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị xử phạt bị cáo Phan Minh P từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

- Hình phạt bổ sung: Không.

-Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ: 1200 bao SCOTT, 400 bao thuốc lá hiệu JET, 300 bao thuốc lá HERO còn nguyên bao bì, được niêm phong trong 3 bao tải màu vàng ký hiệu từ 1 đến 3 và 01 túi nylon màu trắng ký hiệu M; 06 túi nylon màu đen bị xé rách; 01 bản pho to giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 62007330 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Long An cấp ngày 20/12/2021 cho xe ô tô 62A – 252.22, có chứng thực bản sao đúng với bản chính số 000783 ngày 12/01/2022 của Văn phòng Công chứng Phạm Thị H.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu trắng đen, sêri 1: 355754108930879, số sêri 2: 355754109130875, có gắn 02 sim điện thoại của số thuê bao 0859534479 và 0971647219 của bị cáo P.

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.000.000 đồng của bị cáo P để đảm bảo thi hành án.

+ Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện C đã trả lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo, loại Reno 5, màu đen có gắn 01 sim số thuê bao 0972951929 và 01 giấy phép lái xe hạng E cho bị cáo Phụng do không phải vật chứng của vụ án.

+ Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C, tỉnh Bến Tre trả lại 01 xe ô tô biển số 62A-252.22, nhãn hiệu Huyndai, loại Grand i10 và 01 giấy chứng nhận kiểm định xe cho chị Võ Thị Phi Y.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo nuôi con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến vắng mặt. Bị cáo không có ý kiến. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tiếp tục xét xử. Hội đồng xét xử xét thấy những người vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử và đã có lời khai rõ ràng trong quá trình điều tra nên tiếp tục xét xử là phù hợp quy định tại Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa là phù hợp nhau và phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 13 giờ ngày 01/3/2022, tại khu vực thuộc ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre, lực lượng Công an bắt quả tang Phan Minh P đang điều khiển ô tô biển số 62A-252.22, nhãn hiệu Huyndai, loại Grand i10, chở trên xe 1900 bao thuốc lá điếu nhập lậu (1200 bao SCOTT, 400 bao JET, 300 bao HERO) giao cho người tên T, ở khu vực gần chùa M huộc huyện C, tỉnh Bến Tre.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phan Minh P đã phạm “Tội vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.

[3] Bị cáo nhận thức được việc làm của mình, biết việc vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật, nhưng vì động cơ tư lợi bất chính nên đã cố ý và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi bị cáo gây ra không chỉ gây mất trật tự trị an trên địa bàn bị cáo phạm tội, mà còn gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc quản lý thị trường và gây thiệt hại đến kinh tế cho những người kinh doanh hợp pháp trong lĩnh vực này. Do đó, cần xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng: Không có. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đang nuôi con nhỏ chưa thành niên được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà chỉ cần áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và có tác dụng phòng ngừa chung là phù hợp quy định tại Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đã áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu trắng đen, sêri 1:

355754108930879, số sêri 2: 355754109130875, có gắn 02 sim điện thoại của số thuê bao 0859534479 và 0971647219 của bị cáo P sử dụng liên lạc với người thuê chở thuốc lá để vận chuyển hàng cấm nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với 1200 bao SCOTT, 400 bao thuốc lá hiệu JET, 300 bao thuốc lá HERO là hàng hóa cấm lưu thông, buôn bán nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 06 túi nylon màu đen bị xé rách là dụng cụ bị cáo dùng để chứa thuốc lá điếu nhập lậu không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 bản photo giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 62007330 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Long An cấp ngày 20/12/2021 cho xe ô tô 62A – 252.22, có chứng thực bản sao đúng với bản chính số 000783 ngày 12/01/2022 của Văn phòng Công chứng Phạm Thị H là của chị Võ Thị Phi Y, chị Y không có yêu cầu được nhận lại, do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe ô tô biển số 62A-252.22, nhãn hiệu Huyndai, loại Grand i10 do P thuê của Võ Thị Phi Y để chạy xe dịch vụ, chị Yến không biết Phụng sử dụng xe ô tô để vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C, tỉnh Bến Tre xác định trả lại xe kèm 01 giấy chứng nhận kiểm định xe cho chị Y là phù hợp.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo, loại Reno 5, màu đen có gắn 01 sim số thuê bao 0972951929 và 01 giấy phép lái xe hạng E do không phải vật chứng của vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C, tỉnh Bến Tre bị cáo P là phù hợp.

- Đối với số tiền 1.000.000 đồng là tiền cá nhân của bị cáo P, đề nghị tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Đối với người đàn ông tên T là người nhận thuốc lá điếu nhập lậu do Phụng vận chuyển đến, quá trình điều tra xác minh không có thông tin cụ thể nên không xác định được đối tượng này.

[8] Đối với người đàn ông tên D thuê bị cáo P vận chuyển hàng cấm, quá trình điều tra không xác định được người đàn ông này. Số điện thoại 0383920843 qua trích lục do Nguyễn Văn N, cư trú: ấp 4, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An đăng ký thông tin thuê bao, qua làm việc ông N khai nhận không sử dụng số điện thoại này. Qua nhận dạng bị cáo P xác định ông N không phải là người thuê P vận chuyển hàng cấm.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Phan Minh P phạm “Tội vận chuyển hàng cấm”;

- Xử phạt bị cáo Phan Minh P 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[2] Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ: 1200 bao SCOTT, 400 bao thuốc lá hiệu JET, 300 bao thuốc lá HERO còn nguyên bao bì, được niêm phong trong 3 bao tải màu vàng ký hiệu từ 1 đến 3 và 01 túi nylon màu trắng ký hiệu M; 06 túi nylon màu đen bị xé rách; 01 bản pho to giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 62007330 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Long An cấp ngày 20/12/2021 cho xe ô tô 62A – 252.22, có chứng thực bản sao đúng với bản chính số 000783 ngày 12/01/2022 của Văn phòng Công chứng Phạm Thị H.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu trắng đen, sêri 1: 355754108930879, số sêri 2: 355754109130875, có gắn 02 sim điện thoại của số thuê bao 0859534479 và 0971647219 của bị cáo P.

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.000.000 đồng của bị cáo P để đảm bảo thi hành án.

+ Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện C đã trả lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo, loại Reno 5, màu đen có gắn 01 sim số thuê bao 0972951929 và 01 giấy phép lái xe hạng E cho bị cáo P do không phải vật chứng của vụ án.

+ Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện C, tỉnh B trả lại 01 xe ô tô biển số 62A-252.22, nhãn hiệu Huyndai, loại Grand i10 và 01 giấy chứng nhận kiểm định xe cho chị Yến cho chị Võ Thị Phi Y.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C với Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre).

[3] Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc Phan Minh P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 53/2022/HS-ST

Số hiệu:53/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Lách - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về