Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 515/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 515/2022/HSPT NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 621/2021/TLPT-HS ngày 22 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thị Bích C do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2021/HS-ST ngày 10 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị Bích C, sinh năm 1981; Nơi ĐKNKTT: Số 8/78/46 LT, phường HK, quận Lê C, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số 2/110 TNH, phường TNH, quận Lê C, thành phố Hải Phòng; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Không; Giới tính: Nữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Kim L (đã chết); có chồng là Phạm Việt T1; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15h00 ngày 03/01/2019 tại khu vực đầu ngõ Kho K8 C Hà Nội, phường TL, quận Hai Bà T, thành phố Hà Nội, Tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an quận Hai Bà T và Công an phường TL phát hiện bắt quả tang Phạm Văn L1, sinh 1978, trú tại số 14/95 ngõ HG, phường CD, quận Lê C, thành phố Hải Phòng và Phạm Văn T2, sinh 1991, trú tại thôn 2, xã HB, huyện TN, Hải Phòng đang bốc xếp, chuyển các thùng catton bên trong chứa thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất, không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ hàng hóa (hàng nhập lậu) từ xe ô tô tải Isuzu BKS 15C-181.80 sang xe ô tô Mazda BKS 29H-008.65 của Phạm Quang T3, sinh năm 1981 và vợ là Nguyễn Thị Thúy N, sinh năm 1982, trú tại ngõ 407 VH, phường VH, quận Hoàng M, Hà Nội. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật gồm 21 thùng catton bên trong mỗi thùng chứa 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555; tổng cộng là 10.500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất (có niêm phong, đánh số thùng thứ tự từ 1 đến 21).

Cụ thể đã thu giữ: Trên xe ô tô tải Isuzu BKS 15C-181.80 do Phạm Văn L1 điều khiển 18 thùng catton bên trong mỗi thùng chứa 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Blend No.555 Gold, tổng cộng 9.000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất. Trên xe ô tô tải Mazda BKS 29H- 008.65 do Nguyễn Quang T3 điều khiển 02 thùng catton bên trong mỗi thùng chứa 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Blend No.555 Gold và 01 thùng catton bên trong chứa 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Blend No.555 Mandarin, tổng cộng 1.500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất.

Tổ công tác còn thu giữ:

- 01 xe ô tô nhãn hiệu Isuzu BKS 15C-181.80 cùng các giấy tờ xe ô tô trên (gồm: Giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô, Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe ô tô và bản photo công chứng Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 15 C-181.80 mang tên Nguyễn Thị Bích C, Giấy biên nhận thế chấp xe ô tô BKS 15C-181.80 của Ngân hàng TMCP Sài Gòn chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch LT), 01 điện thoại di động Oppo A37F màu vàng đồng (thuê bao số 0976.392.326), 01 điện thoại di động Lenovo A328 màu trắng (thuê bao số 085.544.4078), 01 quyển sổ giao nhận hàng kích thước 17x24cm kèm 01 danh thiếp của xe TC và 34.150.000 đồng của Phạm Văn L1; 01 điện thoại di động Nokia TA-1010 màu đen (thuê bao số 0902.020.788), 01 điện thoại dI động Iphone 6S màu vàng (thuê bao số 037.244.4052) của Phạm Văn T2; 01 điện thoại di động Nokia TA-1010 màu đen (thuê bao số 0903.462.866) của Nguyễn Thị Bích C.

Tại Kết luận giám định số 408 ngày 15/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “Bên trong 20 thùng catton ghi số thứ tự từ 01 đến 20, mỗi thùng có 500 bao (mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá nhãn hiệu Blend No.555 Goidt tổng số 10.000 bao thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất;...”.

Qua điều tra xác định: Từ tháng 8/2018, Nguyễn Thị Thúy N cùng chồng là Phạm Quang T3 sinh sống bằng nghề buôn bán thuốc lá điếu nội địa trong đó có hàng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 nhập lậu, không có giấy phép đăng ký kinh doanh. Hàng ngày, khi các khách hàng gọi điện cho N đặt mua thuốc lá điếu trong đó thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất, Nguyễn Thị Thúy N (số thuê bao 0868.154.191) gọi điện cho một phụ nữ tên là Hà Thị B (nhà ở Nam Định, không rõ địa chỉ, số thuê bao 0965.111.412) hoặc một phụ nữ tên P ở Hải Phòng (không rõ họ tên, địa chỉ, số thuê bao 0961.894.448) đặt mua thuốc lá điếu. Sau đó, N gọi điện cho Nguyễn Thị Bích C, sinh 1982, trú tại số 8/78/46 LT, phường HK, quận Lê C, Hải Phòng (số thuê bao 0903.462.866) thuê vận chuyển thuốc lá điếu từ Hải Phòng đến kho hàng của N thuê tại Kho K8 C Hà Nội, phường TL, quận Hai Bà T, Hà Nội, với giá thuê vận chuyển là 115.000 đồng/1 thùng và thỏa thuận chuyển khoản tiền thuê vận chuyển cho C sau khi N nhận đủ hàng (chồng N là T3 trả tiền thuê vận chuyển). Nguyễn Thị Bích C sau khi được N gọi điện thuê vận chuyển các thùng hàng thuốc lá điếu đã giao cho Phạm Văn T2 và Phạm Văn L1 (là lái xe và phụ xe do C thuê trả công tháng) điều khiển xe ô tô tải BKS 15C-181.80 của C vận chuyển chở hàng thuốc lá từ Hải Phòng đến Kho K8 C Hà Nội giao cho N, sau đó T3 mang đi tiêu thụ giao bán các thùng thuốc lá cho các khách hàng đã đặt mua trước với N và thu tiền hàng từ họ.

Khoảng 08h ngày 03/01/2019, N gọi điện cho Nguyễn Thị Bích C thuê vận chuyển chở 20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Gold.

Cùng ngày 03/01/2019, sau khi nhận vận chuyển thuê 20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 ngoại nhập trên cho N, Nguyễn Thị Bích C giao cho Phạm Văn T2 và Phạm Văn L1 (là lái xe và phụ xe ô tô do C thuê) điều khiển ô tô tải Isuzu BKS 15C-181.80 gọi điện liên hệ với T4 là người giao hàng (số thuê bao 0339.076.663) để nhận 20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 và vận chuyển chở số hàng trên từ Hải Phòng đến Kho K8 C Hà Nội giao cho N, T3. C đưa cho L1 01 điện thoại di động Nokia (số thuê bao 0902.020.788) bên trong lưu số điện thoại của T4, N, T3 để liên lạc giao nhận số hàng trên. Khoảng 12h ngày 03/01/2019, theo yêu cầu của T4, Phạm Văn L1 cùng Phạm Văn T2 điều khiển xe ô tô BKS 15C-181.80 đến khu vực xã AH, huyện AD, Hải Phòng thì có một người đàn ông lái xe ô tô tải (không rõ họ tên, địa chỉ, số BKS xe) đi đến và bốc xếp, chuyển 20 thùng catton thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 ngoại nhập, không có hóa đơn chứng từ mua bán hàng hóa sang xe ô tô BKS 15 C-181.80 của L1 và T2, sau đó T2 và L1 vận chuyển chở số hàng thuốc lá trên đi theo đường cao tốc từ Hải Phòng đến đầu ngõ Kho K8 C Hà Nội để giao hàng cho N, T3 như đã hẹn. Đến khoảng 15h00 cùng ngày 03/01/2019, khi L1 lái xe ô tô tải BKS 15C- 181.80 vận chuyển số hàng thuốc lá nhãn hiệu 555 trên gần đến Kho K8 C Hà Nội thì T2 nhận được điện thoại của T3 (số điện thoại 0792.654.999) hẹn đỗ xe ô tô ở đầu ngõ Kho K8 C Hà Nội để T3 lấy trước hàng mang đi giao cho khách, số thùng thuốc lá còn lại thì T2 và L1 chuyển vào kho hàng của N tại Kho K8 C Hà Nội. Tại đầu ngõ Kho K8 C Hà Nội, trong khi L1 và T2 bốc xếp, chuyển được 2/20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Gold trên từ xe ô tô tải BKS 15C- 181.80 sang xe ô tô BKS 29H-008.65 của T3, N và đang chuyển đến thùng thuốc lá thứ 3 thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Xác minh về các tang vật chứng, tài sản do Cơ quan điều tra thu giữ liên quan đến bị can Nguyễn Thị Bích C, thấy:

- Về xe ô tô tải nhãn hiệu Isuzu BKS 15C-181.80, đăng ký chủ xe Nguyễn Thị Bích C, địa chỉ số 8/78/46 LT, Lê C, Hải Phòng. Tại Kết luận giám định số 1720 xác định xe ô tô BKS 15-181.80 trên có số khung, số máy là số nguyên thủy. C khai: Ngày 05/12/2015, C mua mới xe ô tô tải có mui nhãn hiệu Isuzu để kinh doanh và đăng ký chính chủ BKS 15C- 181.80. Ngày 11/12/2015, C ký hợp đồng tín dụng, thế chấp xe ô tô BKS 15C-181.80 trên với Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) chi nhánh Hải Phòng, Phòng giao dịch LT vay số tiền 530.000.000 đồng để kinh doanh, thời hạn vay là 48 tháng (xe ô tô là tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay). Ngày 21/8/2019, Ngân hàng SHB chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch LT có công văn đề nghị Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Hà Nội giao lại xe ô tô tải BKS 15C-181.80 trên cho Ngân hàng để làm các thủ tục xử lý nợ quá hạn, thu hồi nợ khoản vay trên của Nguyễn Thị Bích C. Ngày 23/08/2019, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Hà Nội đã ra quyết định xử lý vật chứng, tạm giao xe ô tô tải BKS 15C-181.80 trên cho Ngân hàng SHB chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch LT để bảo quản cho tới khi vụ án được đưa ra xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về 01 điện thoại di động Nokia TA-1010 màu đen (số thuê bao 0902.020.788) thu giữ của Phạm Văn T2. Các bị can C, L1, T2 khai: Điện thoại Nokia trên là do C đưa cho L1 và T2 để liên hệ giao nhận, vận chuyển hàng thuốc lá điếu 555 nhập lậu với T4, N, T3 trong vụ án, nên xác định là công cụ phạm tội, là vật chứng của vụ án.

- Về 01 điện thoại di động Nokia TA-1010 màu đen (số thuê bao 0903.462.866) của Nguyễn Thị Bích C. Các bị can khai sử dụng điện thoại trên để liên lạc với nhau và các đối tượng liên quan trong quá trình mua bán, vận chuyển, giao nhận hàng cấm là thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 nhập lậu ngày 03/01/2019, nên xác định là công cụ phạm tội, là vật chứng của vụ án.

- Về số tiền 34.150.000 đồng do Cơ quan điều tra thu giữ của Phạm Văn L1 ngày 03/01/2019. Các bị can L1, C khai số tiền trên là của C giao cho L1 để trả tiền cho khách hàng và chi phí xăng xe đi đường, không liên quan đến vụ án, nên xác định không phải là vật chứng của vụ án.

Ngày 07/11/2019, 28/11/2019 trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã triệu tập đối với các bị cáo Phạm Văn T2, Nguyễn Thị Bích C, nhưng T2, C vắng mặt, nên trả hồ vụ án để điều tra bổ sung xác minh, làm rõ. Ngày 06/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can số 02 đối với Phạm Văn T2, theo khoản 7 Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự (do Phạm Văn T2 đã chết do bị cảm ngày 26/10/2019 (có Giấy trích lục khai tử số 567 cấp ngày 03/12/2019 của UBND xã HB, huyện TN, TP Hải Phòng).

Đối với Nguyễn Thị Bích C, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Hà Nội đã xác minh tại Bệnh viện tâm thần Hải Phòng cung cấp: Nguyễn Thị Bích C điều trị tại bệnh viện: Lần thứ nhất từ ngày 03/9/2019 đến ngày 30/9/2019, chẩn đoán lúc ra viện rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm, tình trạng lúc ra viện là tâm thần chưa ổn định, gia đình xin về; Lần thứ hai từ ngày 30/9/2019 đến ngày 18/10/2019 với chẩn đoán giai đoạn trầm cảm nặng, có các triệu chứng loạn thần, tình trạng lúc ra viện là tình trạng tâm thần tạm ổn định, gia đình xin ra viện. Ngày 31/3/2020, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Hà Nội ra quyết định trưng cầu giám định tâm thần tại Viện Pháp y tâm thần Trung ương đối với bị can Nguyễn Thị Bích C. Do thời hạn điều tra bổ sung đã hết, nhưng chưa có kết luận giám định trên nên ngày 11/5/2020 Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 27, Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự số 18, Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can số 32 đối với Nguyễn Thị Bích C.

Tại Bản án số 215/2020/HS-ST ngày 25/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên phạt: Các bị cáo Nguyễn Thị Thúy N 09 năm tù và Phạm Quang T3 09 năm tù, về tội “Buôn bán hàng cấm”, quy định tại điểm b khoản 3 điều 190 Bộ luật Hình sự; bị cáo Phạm Văn L1 05 năm tù, về tội “Vận chuyển hàng cấm”, quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Đồng thời, tuyên giao cho Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Hà Nội các vật chứng của Nguyễn Thị Bích C để quản lý, đến khi nào xét xử đối với bị cáo Nguyễn Thị Bích C sẽ quyết định xử lý gồm: 02 điện thoại Nokia TA 1010 màu đen, 34.150.000 đồng và 01 xe ô tô tải nhãn hiệu Isuzu BKS 15C-181.80 hiện do Ngân hàng SHB chi nhánh Hải Phòng - Phòng giao dịch LT quản lý theo quyết định xử lý vật chứng ngày 23/8/2019 của Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Hà Nội.

Ngày 18/9/2020, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Hà Nội nhận được bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số 205 ngày 19/6/2020 của Viện pháp y tâm thần Trung ương đối với bị can Nguyễn Thị Bích C, kết luận: “Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị can Nguyễn Thị Bích C không có bệnh tâm thần. Bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Tại thời điểm giám định, bị can Nguyễn Thị Bích C có biểu hiện phản ứng hỗn hợp lo âu và trầm cảm. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã F43.22. Bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”. Ngày 21/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự số 28, Quyết định phục hồi điều tra bị can số 83 đối với Nguyễn Thị Bích C.

Bản cáo trạng số: 438/CT-VKS-P3 ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Thị Bích C về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2021/HS-ST ngày 10/6/2021, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích C 05 (Năm) năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án phạt tù.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/7/2021, bị cáo Nguyễn Thị Bích C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Bích C vắng mặt. Tuy nhiên, căn cứ các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung và đơn kháng cáo của bị cáo C thể hiện bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội dung vụ án, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận: Bị cáo C biết mặt hàng thuốc lá nhận vận chuyển thuê về Hà Nội không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ, nhưng vẫn nhận đồng ý vận chuyển và điều hành bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá đầy đủ tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích C mức án 05 năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm” là có căn cứ, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị Bích C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 07/3/2022 và ngày 17/6/2022 bị cáo Nguyễn Thị Bích C đều vắng mặt và có đơn xin hoãn phiên tòa với lý do bị nhiễm covid-19 và sức khỏe yếu không đảm bảo tham gia phiên tòa (đơn không có các tài liệu gửi kèm theo để chứng minh lý do xin hoãn như kết quả xét nghiệm, quyết định cách ly y tế, hồ sơ bệnh án…). Ngày 20/7/2022, Tòa án nhân dân cấp cao tiếp tục mở phiên tòa phúc thẩm, bị cáo C lại tiếp tục có đơn xin hoãn phiên tòa với lý do sức khỏe giống nội dung đơn xin hoãn phiên tòa ngày 17/6/2022. Xét thấy, bị cáo Nguyễn Thị Bích C đã được triệu tập hợp lệ 03 lần, nhưng đều vắng mặt và xin hoãn phiên tòa với lý do sức khỏe, nhưng đều không có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng sức khỏe của bị cáo nên lý do bị cáo nêu ra là không có căn cứ chấp nhận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo có kháng cáo. Căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 351 BLTTHS, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo Nguyễn Thị Bích C.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Bích C vắng mặt. Căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Thị Bích C tại Cơ quan điều tra phù hợp với lời khai các bị cáo khác (đã được xét xử tại Bản án hình sự số 215/HS-ST ngày 25/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội), vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Mặc dù biết Nguyễn Thị Thúy N thuê vận chuyển 20 thùng hàng là 20 thùng thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất thuộc hàng cấm, nhưng ngày 03/01/2019 Nguyễn Thị Bích C vẫn đồng ý nhận vận chuyển và chỉ đạo lái xe thuê của C là Phạm Văn T2 và Phạm Văn L1 sử dụng xe ô tô tải BKS 15C-181.80 thực hiện việc giao, nhận hàng từ Hải Phòng đến cảng Hà Nội giao cho Nguyễn Thị Thúy N thì bị Công an bắt quả tang. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử bị cáo Nguyễn Thị Bích C về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Đối với Phạm Văn T2 đã bị chết trong quá trình điều tra nên cơ quan điều tra đã đình chỉ điều tra và bị cáo Phạm Văn L1 đã bị xét xử về tội “Vận chuyển hàng cấm” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 215/2020/HSST ngày 25/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội với mức án 05 năm tù.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị Bích C, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Bị cáo C nhận thức việc vận chuyển thuốc lá không có hóa đơn chứng từ, không có nguồn gốc xuất xứ và là mặt hàng Nhà nước cấm vận chuyển là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích hưởng lợi nên C vẫn đồng ý nhận vận chuyển hàng cấm với số lượng lớn (10.000 bao thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất) và chỉ đạo lái xe của C thực hiện việc giao, nhận hàng theo thỏa thuận vận chuyển giữa Nguyễn Thị Bích C với vợ chồng Nguyễn Thị Thúy N, Phạm Quang T3. Khi Quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá tính chất hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo để xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích C mức án 05 năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm” là mức khởi điểm của khung hình phạt là có căn cứ. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị Bích C.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.

Về án phí: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Thị Bích C phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị Bích C; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 175/2021/HSST ngày 10/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; cụ thể như sau:

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Bích C 05 (Năm) năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị Bích C phải chịu 200.000đ án phí phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 515/2022/HSPT

Số hiệu:515/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về