Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 25/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 25/2021/HS-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 24 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2021/TLST-HS ngày 22 – 4 – 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST-HS ngày 10 – 5 – 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Bá D; Giới tính: Nam; sinh ngày 28 – 11 – 2002. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn Th, xã P, huyện T, tỉnh Nghệ An. Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không. Đảng, đoàn thể: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Con ông: Lê Thiết C và bà: Võ Thị T. Anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Vợ, con: Chưa. Tiền án, tiền sự: Không. Biện pháp ngăn chặn: Bị can Lê Bá D bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05 – 02 – 2021. (Có mặt tại phiên tòa.)

2. Những người tham gia tố tụng:

Người làm chứng:

- Ông Hoàng Văn Th sinh năm 1979; địa chỉ: 206 Lê Duẫn, phường Ph, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nghề nghiệp: Lái xe (vắng mặt)

- Bà Lê Thị Vân Kh sinh năm 1968; địa chỉ: Khu phố 6, phường 5, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Nghề nghiệp: Kinh doanh (vắng mặt)

- Anh Lê Bá Tuấn A sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn Th, xã P, huyện T, tỉnh Nghệ An (vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua mạng xã hội Facebook, D có quen biết và kết bạn với một người đàn ông tên là T1 (trú tại thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh) D và T1 chỉ nói chuyện với nhau qua facebook chứ chưa bao giờ gặp mặt trực tiếp. Vào ngày 01/02/2021, T1 sử dụng Facebook có tên “L” nhắn tin cho D qua tài khoản facebook của D là “Lê D” với nội dung T1 nhờ D xuống thành phố Vinh gặp một người đàn ông là người quen của T1 lấy hộ 05 (năm) hộp pháo mà T1 đã mua với giá 7.000.000đ (bảy triệu đồng), T1 đã trả trước cho người đàn ông trên 3.000.000đ (ba triệu đồng), còn lại

019.23

4.000.000đ (bốn triệu đồng) T1 nhờ D nhận pháo và trả số tiền còn thiếu cho người đó, rồi bảo D mang số pháo trên vào cổng nhà máy F ở thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh cho T1 thì T1 sẽ trả cho D số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) nên D đồng ý. Đến sáng ngày 03/02/2021, D một mình bắt xe ô tô khách biển kiểm soát 37B-019.23 của nhà xe K, đi từ nhà D ở xã P, huyện T, tỉnh Nghệ An xuống thành phố Vinh để nhận pháo đưa vào thị xã K cho T1. Trên đường đi D nhận được điện thoại gọi đến từ số 0776.250.108 của người đàn ông bán pháo cho T1, người này hẹn D đến khách sạn SV (ở đường tránh thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An để nhận hàng). Đến khoảng 09 giờ 30 phút, khi xe đi đến khu vực khách sạn SV thì D yêu cầu xe dừng lại rồi xuống xe gặp người đàn ông nhận 01 (một) thùng cát tông màu trắng dán kín, bên trong có chứa pháo, D trả cho người đàn ông đó 4.000.000đ (bốn triệu đồng) rồi mang thùng cát tông chứa pháo lên xe khách để ở khu vực giường phía sau gần vị trí D nằm. Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 03/02/2021, khi xe ô tô kiểm soát 37B- của nhà xe K đi đến km 558+200 Quốc lộ 1A thuộc địa phận xã Kỳ Thọ, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra, kiểm soát thuộc phòng CSGT Công an tỉnh Hà Tĩnh tiến hành dừng và kiểm tra hành chính, quá trình kiểm tra lực lượng Công an phát hiện tại khu vực giường ngủ phía sau cùng của xe có 01 thùng giấy các tông màu trắng bên trong có 05 (năm) khối hình hộp, kích thước mỗi hộp là 14cm x 14cm x 12cm, bên ngoài được dán giấy nhiều màu sắc, có in chữ nước ngoài, Lê Bá D trình bày 05 (năm) khối hình hộp trên là pháo, được D đưa từ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào cho một người bạn tên là T1 (D không biết rõ họ, ở thị xã K).

Tại bản kết luận giám định số 112/GĐP-PC09 ngày 05/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: 05 (năm) khối hình hộp chữ nhật, mỗi khối có kích thước là (14x14x12)cm, bên ngoài có bọc giấy bóng in hoa văn nhiều màu sắc và ký tự nước ngoài, bên trong mỗi khối hộp có 36 vật hình trụ tròn liên kết với nhau gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ), có khối lượng là 6,8kg (sáu phẩy tám kilogam).

Về vật chứng đã thu giữ và xử lý: Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo Lê Bá D các đồ vật:

- 01 (một) chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Realme màu xanh, có số imei1: 469831865071042040258, số imei2: 86507104204241, gắn số thuê bao 037 2 (đã qua sử dụng).

- 01 một thùng các tông màu trắng bên trong có 05 (năm) khối hình hộp, kích thước 14cm x 14cm x 12cm, bên ngoài có dán giấy nhiều màu sắc, in hình chữ nước ngoài, có khối lượng là 6,72kg pháo (đã lấy mẫu giám định là 0,08kg). 

Tất cả các vật chứng trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Hà Tĩnh để xử lý theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKSKA ngày 19 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh để xét xử đối với Lê Bá D về tội “Vận chuyển hàng cấm" theo quy định tại khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Bá D thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Lê Bá D phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

- Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Bá D từ 6 đến 9 tháng tù. Cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 đến 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy; 01 một thùng các tông màu trắng bên trong có 05 (năm) khối hình hộp, kích thước 14cm x 14cm x 12cm, bên ngoài có dán giấy nhiều màu sắc, in hình chữ nước ngoài, có khối lượng là 6,72kg pháo (đã lấy mẫu giám định là 0,08kg).

- Về hình phạt bổ sung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Sung công quỹ nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Realme màu xanh, có số imei1: 46983 865071042040258, số imei2: 86507104204241, gắn số thuê bao 037 12 (đã qua sử dụng).

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30–12–2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án kèm theo buộc Lê Bá D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lê Bá D tranh luận thừa nhận hành vi và tội phạm của mình, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì nhận thức chưa đầy đủ về mặt pháp luật, trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là lần đầu tiên bị cáo phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan CSĐT Công an huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Căn cứ vào biên bản sự việc, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, lời khai của bị cáo, người làm chứng trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa có đủ căn cứ để khẳng định hành vi của Lê Bá D vận chuyển 6,8kg pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ) nhằm mục đích hưởng lợi đã cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Với hành vi nêu trên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Lê Bá D về tội “Vận chuyển hàng cấm” là hoàn toàn chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về hình phạt: Đây là một vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, nhưng hành vi vận chuyển pháo của bị cáo Lê Bá D thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh xem thường pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội. Nhưng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Nhân thân bị cáo trước khi phạm tội tốt, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy chưa cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà xử phạt bị cáo từ 6 tháng đến 9 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng như lời đề nghị của đại diện viện kiểm sát là hoàn toàn phù hợp.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không công việc làm ổn định, thu nhập bấp bênh. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Trong vụ án này, bị cáo Lê Bá D khai nhận người có số điện thoại 07 876.250.10 gọi điện đến để giao pháo cho D tại thành phố Vinh, hành vi của người này có dấu hiệu của tội mua bán hàng cấm. Tuy nhiên, qua xác minh thông tin đăng ký thuê bao của số điện thoại này tại Trung tâm tính cước và thanh khoản Tập đoàn Mobifone xác định người đăng ký số điện thoại trên là Đặng Thị H (sinh năm 1985, trú tại xã Kỳ Thư, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã tiến hành xác minh tại Công an xã Kỳ Thư, huyện K, qua xác minh hiện nay H không có mặt tại địa phương. Về thông tin nhận dạng người đàn ông đã giao pháo cho D, quá trình điều tra không đủ dữ liệu để xác minh đối với người đàn ông này, do đó đề nghị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của Pháp luật.

Đối với người đàn ông tên T1, trú tại thị xã K, Hà Tĩnh là người sử dụng tài khoản Facebook có tên “L” để nhắn tin nhờ D vận chuyển pháo, quá trình điều tra xác định tài khoản Facebook trên không chính chủ, không có bất kỳ thông tin cá nhân nào liên quan. Vì vậy, không đủ chứng cứ để xử lý về người đàn ông đã nhờ D vận chuyển pháo nói trên. 

[6]. Về vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ 01 một thùng các tông màu trắng bên trong có 05 (năm) khối hình hộp, kích thước 14cm x 14cm x 12cm, bên ngoài có dán giấy nhiều màu sắc, in hình chữ nước ngoài, có khối lượng là 6,72kg pháo (đã lấy mẫu giám định là 0,08kg), đây là các vật chứng bị nhà nước cấm tàng trữ và cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Vật chứng là 01 (một) chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Realme màu xanh, có số imei1: 865071042040258, số imei2: 86507104204241, gắn số thuê bao 0374698312 (đã qua sử dụng). Bị cáo D dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu xung công quỹ nhà nước theo quy định tại Điểm c, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điểm a, c, khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8].Về quyền kháng cáo: Bị cáo, có quyền kháng cáo theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 – 12 – 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án kèm theo;

Tuyên bố: bị cáo Lê Bá D phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

- Xử phạt Lê Bá D 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (07/7/2021).

Giao bị cáo Lê Bá D cho UBND xã P, huyện T, tỉnh Nghệ An quản lý giáo dục trong thời gian chấp hành án.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 một thùng các tông màu trắng bên trong có 05 (năm) khối hình hộp, kích thước 14cm x 14cm x 12cm, bên ngoài có dán giấy nhiều màu sắc, in hình chữ nước ngoài, có khối lượng là 6,72kg pháo (đã lấy mẫu giám định là 0,08kg).

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Realme màu xanh, có số imei1: 865071042040258, số imei2: 86507104204241, gắn số thuê bao 0374698312 (đã qua sử dụng) Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19 – 4 – 2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

- Buộc bị cáo Lê Bá D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo Lê Bá D được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 25/2021/HS-ST

Số hiệu:25/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về