Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 21/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN NAM, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 17/02/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 17 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 107/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 92/2021/QĐXXST-HS ngày 31/12/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2022/HSST-QĐ ngày 18/01/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Mai Văn K (tên gọi khác: không), sinh năm: 1996; nơi sinh: Long An; nơi cư trú: ấp V, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Thành T – sinh năm 1973 và bà Trần Thị Tuyết M – sinh năm 1975 (cùng trú tại ấp Vinh, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt giữ ngày 16/9/2021 và hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hàm Thuận Nam. (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Huỳnh Tấn A – sinh năm 2000. (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp M, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

+ Nguyễn Hoàng N – sinh năm 1987. (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp B 2, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Mai Văn K khai nhận có quen biết với một người tên thường gọi là anh Hai (người gốc Campuchia chưa xác định được nhân thân, lai lịch). Ngày 19/12/2020, Hai gọi điện thoại cho K nhờ tìm người lái xe ôtô để vận chuyển thuốc lá điếu hiệu JET nhập lậu từ tỉnh Long An đi giao tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận với số tiền công như sau: Người điều khiển xe ôtô từ 1.000.000 đồng đến 1.200.000 đồng/chuyến, đối với người đi phụ xe từ 400.000 đồng đến 500.000 đồng/chuyến. Riêng Khanh, sau khi vận chuyển xong thì Hai đưa K từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Sau đó, K thuê Nguyễn Hoàng N - sinh năm 1987 (trú tại ấp Bình Hòa 2, xã Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) và Huỳnh Tấn A - sinh năm 2000 (trú tại ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Thạnh Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An) thỏa thuận trả công cho N 1.200.000 đồng/chuyến và An 500.000 đồng/chuyến để vận chuyển thuốc lá điếu hiệu JET nhập lậu từ tỉnh Long An đi giao tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận thì N và A đồng ý. Sau đó, K điều khiển xe ô tô biển kiểm soát số 51H-750.22 (xe ôtô này do đối tượng tên Hai giao cho K để phục vụ vận chuyển thuốc lá lậu) chở A đến gặp và giao xe, để N trực tiếp điều khiển và chở A đi theo xe bốc xếp 6000 bao thuốc lá điếu hiệu Jet (loại 20 điếu/bao, 10 bao được đóng thành 1 cây) cùng với N, để giao cho một đối tượng tên Hưng (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) ở thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (số điện thoại của Hưng do người đàn ông gốc Campuchia nhắn cho Khanh, sau đó K nhắn lại cho N để liên lạc, giao thuốc lá). Đến khoảng 23 giờ 00 cùng ngày, khi xe ô tô do N điều khiển vận chuyển số thuốc lá nêu trên đi đến Trạm thu phí Sông Phan thuộc thôn Minh Tiến, xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận thì bị tổ công tác Công an tỉnh Bình Thuận phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật và một số giấy tờ trên người N như: Giấy phép lái xe bằng nhựa PET hạng D số 790121240556; Căn cước công dân số 079083040956 đều mang tên Nguyễn Trần Quốc Quang; Giấy chứng minh nhân dân số 301265173 mang tên Nguyễn Hoàng N... và chuyển giao cho Công an huyện Hàm Thuận Nam tiếp nhận, xử lý theo thẩm quyền. Sau khi nghe tin N và A bị bắt thì K bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 16/9/2021 Khanh bị bắt theo quyết định truy nã và thu giữ trên người của Mai Văn K các giấy tờ gồm: 01 Giấy chứng minh nhân dân số 301558681 do Công an tỉnh Long An, cấp ngày 20/4/2011 đứng tên Mai Văn K; 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 11, số máy: MWLT2VN/A có số seri: C6KCFD49N735 và 01 sim số: 0357.113.347; quá trình điều tra xét thấy giấy tờ và tài sản này không liên quan đến hành vi phạm tội của K nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho K.

Tại bản kết luận giám định số 1220/KLGĐ-PC09 ngày 29/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận, kết luận: Giấy phép lái xe bằng nhựa PET hạng D số 790121240556 là giả, Giấy chứng minh nhân dân số 301265173 mang tên Nguyễn Hoàng N là giả; đối với Căn cước công dân số 079083040956 mang tên Nguyễn Trần Quốc Quang không đủ cơ sở để kết luận.

Vật chứng của vụ án gồm: 6.000 bao thuốc lá điếu hiệu JET (loại 20 điếu/bao, 10 bao được đóng thành 1 cây); xe ô tô hiệu TOYOTA loại VIOS biển số 51H-750.22... đã được giải quyết tại Bản án số 84/2021/HS-ST ngày 29/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

Do đó, vật chứng còn lại là 01 Giấy phép lái xe bằng nhựa PET hạng D số 790121240556 mang tên Nguyễn Trần Quốc Quang, 01 Giấy chứng minh nhân dân số 301265173 do Công an tỉnh Long An cấp ngày 26/8/2016 mang tên Nguyễn Hoàng N và 01 Căn cước công dân số 079083040956 cấp ngày 29/4/2019 mang tên Nguyễn Trần Quốc Quang.

Liên quan đến hành vi vận chuyển hàng cấm do Mai Văn K thực hiện, Tại bản án số 84/2021/HS-ST ngày 29/9/2021, Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận đã xét xử và tuyên phạt bị cáo Nguyễn Hoàng N 04 năm tù và bị cáo Huỳnh Tấn A 03 năm 06 tháng tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Tại Cáo trạng số 111/VKSHTN-HS ngày 05/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận truy tố Mai Văn K về tội: “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng số 111/VKSHTN-HS ngày 05/11/2021. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38 của Bộ luật Hình sự để tuyên bố bị cáo Mai Văn K phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” và đề nghị xử phạt bị cáo Mai Văn K mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự để tịch thu, tiêu hủy Giấy phép lái xe bằng nhựa PET hạng D số 790121240556 mang tên Nguyễn Trần Quốc Quang và Giấy chứng minh nhân dân số 301265173 do Công an tỉnh Long An cấp ngày 26/8/2016 mang tên Nguyễn Hoàng N.

Bị cáo Mai Văn K thừa nhận hành vi như đã khai tại cơ quan điều tra và nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam đã truy tố, bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, không oan, nhưng do thiếu hiểu biết pháp luật nên phạm tội, bị cáo rất ân hận về hành vi mà mình đã làm và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, Kiểm sát viên đều được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Hoàng N và Huỳnh Tấn A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử nên tiến hành phiên tòa xét xử vụ án.

[2] Về hành vi và tội danh:

[2.1] Bị cáo Mai Văn K thừa nhận hành vi đã thực hiện như lời khai tại Cơ quan điều tra và nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam đã truy tố, phù hợp với lời khai của Nguyễn Hoàng N, Huỳnh Tấn A và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, bị cáo Mai Văn K cho rằng bị cáo nhận lời của một đối tượng tên Hai (chưa xác định được lai lịch) để thuê Nguyễn Hoàng N và Huỳnh Tấn A vận chuyển thuốc lá nhập lậu và nhận từ đối tượng tên Hai số tiền công từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng nhưng không có chứng cứ xác thực; ngược lại, Nguyễn Hoàng N và Huỳnh Tấn A đều xác định bị cáo Mai Văn K là người đã thuê họ vận chuyển 6000 bao thuốc lá nhập lậu, giao xe và cung cấp số điện thoại để liên lạc với đối tượng tên Hưng tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Từ các tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 19/12/2020, Mai Văn K có thuê Nguyễn Hoàng Nhã và Huỳnh Tấn A sử dụng xe ô tô hiệu TOYOTA-VIOS biển kiểm soát 51H-750.22 do K giao để vận chuyển 6000 bao thuốc lá điếu hiệu JET nhập lậu từ tỉnh Long An (loại 20 điếu/bao, 10 bao được đóng thành một cây, trên bao thuốc không dán tem do Bộ Tài chính ban hành, không in cảnh báo sức khỏe bằng hình ảnh và bằng tiếng Việt Nam trên mặt trước và mặt sau của bao thuốc lá, toàn bộ số thuốc lá này là hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam) đi giao tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; thỏa thuận trả công cho N số tiền 1.200.000 đồng/chuyến và A số tiền 500.000 đồng/chuyến. Khi N và A vận chuyển số thuốc lá trên đến Trạm thu phí Sông Phan thuộc thôn Minh Tiến, xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận thì bị tổ công tác thuộc Công an tỉnh Bình Thuận phát hiện, bắt quả tang vào khoảng 23 giờ 00 phút cùng ngày. Do đó, hành vi của bị cáo Mai Văn K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Đồng phạm của Mai Văn K là Nguyễn Hoàng N và Huỳnh Tấn A trước đó đã bị Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xét xử tại Bản án số 84/2021/HS-ST ngày 29/9/2021.

[2.2] Quá trình điều tra, Nguyễn Hoàng N khai 01 Giấy phép lái xe hạng D số 790121240556 mang tên Nguyễn Trần Quốc Quang, 01 Giấy chứng minh nhân dân số 301265173 mang tên Nguyễn Hoàng N do K làm giả và đưa cho N để phục vụ việc đi lại, vận chuyển thuốc lá nhập lậu. Tuy nhiên, tại biên bản đối chất giữa K với N và biên bản hỏi cung thì K không thừa nhận đã cung cấp những giấy tờ trên cho N. Xét thấy, ngoài lời khai của N ra thì không còn tài liệu nào khác thể hiện tính xác thực lời khai của N, nên không có căn cứ để xử lý K về hành vi “Làm giả, sử dụng con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo Điều 341 Bộ luật Hình sự. Bên cạnh đó, dù biết những giấy tờ trên là giả nhưng khi bị lực lượng Công an bắt quả tang N về hành vi “Vận chuyển hàng cấm” thì N chưa sử dụng những giấy tờ này để thực hiện hành vi trái pháp luật, nên hành vi của N không cấu thành tội “Sử dụng giấy tờ giả của cơ quan, tổ chức” theo Điều 341 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cơ quan điều tra không khởi tố K và N về hành vi “Làm giả, sử dụng con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo Điều 341 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.

[3] Bị cáo K có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thân nhân bị cáo là người có công với nhà nước. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo bỏ trốn đã gây trở ngại cho việc điều tra vụ án của Cơ quan điều tra.

[4] Tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo Mai Văn K là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất rất nghiêm trọng với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước; vụ án có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, trong đó bị cáo đóng vai trò chính, rủ rê, lối kéo Nguyễn Hoàng N và Huỳnh Tấn A cùng phạm tội.

[5] Hình phạt: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được áp dụng và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn để nhằm dăn đe, giáo dục.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 Giấy phép lái xe bằng nhựa PET hạng D số 790121240556 mang tên Nguyễn Trần Quốc Quang và 01 Giấy chứng minh nhân dân số 301265173 mang tên Nguyễn Hoàng N được xác định là giấy tờ giả, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

01 Căn cước công dân số 079083040956 mang tên Nguyễn Trần Quốc Quang chưa đủ cơ sở để giám định nên Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để xử lý sau là phù hợp pháp luật.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Mai Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam tại phiên tòa về hành vi và tội danh của bị cáo Mai Văn K đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Mai Văn K phạm tội: Vận chuyển hàng cấm.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Mai Văn Kh 05 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/9/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 01 Giấy phép lái xe bằng nhựa PET hạng D số 790121240556 cấp ngày 13/8/2019 mang tên Nguyễn Trần Quốc Quang và 01Giấy chứng minh nhân dân số 301265173 mang tên Nguyễn Hoàng N.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận)

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Mai Văn K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 21/2022/HS-ST

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về