Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 11/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 11/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T , tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 08/2024/HSST- QĐ ngày 06 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh T (Lỳ) - sinh ngày 14/4/2000.

Nơi cư trú: 82/9 đường N, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1968 (chết) và bà Lưu Thị B, sinh năm 1968. Vợ: Lê Đào Khả A (chưa đăng ký kết hôn); Con: có 01 người sinh năm 2018;

Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/7/2023 đến ngày 19/7/2023 chuyển tạm giam đến nay. (Bị cáo có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh T :

Luật sư Bùi Thị T1 - Thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang (có mặt).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Trần Thị Ngọc B , sinh năm 1987 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: 1079D/2K, đường L, phường A, thành phố R , tỉnh Kiên Giang.

2. Trần Anh T , sinh năm 1976 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: 292/2 đường T , phường 2, thành phố S , tỉnh Sóc Trăng.

3. Lê Đào Khả A , sinh năm 2004 (có mặt) Địa chỉ: 15/16 P , phường V, thành phố R , tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 16/07/2023, tại khu vực ấp Đ, xã T, huyện T , tỉnh Kiên Giang (tuyến Quốc Lộ 80), Lực lượng cảnh sát Kinh tế Công an tỉnh Kiên Giang phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Thanh T khi T đang điều khiển xe ô tô tải Biển kiểm soát 83H-007.xx vận chuyển 25.500 (Hai mươi lăm nghìn năm trăm) bao thuốc lá điếu, gồm các nhãn hiệu: HERO số lượng 18.000 bao, JET số lượng 6.900 bao, SCOTT số lượng 600 bao và tiến hành lập biên bản bắt quả tang, tạm giữ: 01 xe ô tô tải Biển kiểm soát 83H-007.xx; 18.000 bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, 6.900 bao thuốc lá nhãn hiệu JET, 600 bao thuốc lá nhãn hiệu SCOTT; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE số máy: MG9P3LL/A, số seri: G0NDNRT40DY đã qua sử dụng, bị bể mặt sau, bên trong có gắn sim số: 08486861xx; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô số: 83005717 do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 11/07/2022; 02 Biển số xe 67C-085.xx và 64C-102xx.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thanh T khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 15/07/2023, Nguyễn Thanh T được một người đàn ông tên Chín điện thoại từ số thuê bao 0815552xxx đến số thuê bao của Tuấn 08486861xx (sim số 08486861xx của T gắn vào điện thoại nhãn hiệu IPHONE số máy: MG9P3LL/A, số seri: G0NDNRT40DY của chị Lê Đào Khả A do T mượn sử dụng) thuê T chạy xe tải đi huyện T, tỉnh Long An để giao trái dừa tươi và nhận thuốc lá nhập lậu về thành phố V, tỉnh Hậu Giang giao cho một người phụ nữ tên Nhi nhưng Chín không cho biết địa chỉ và số điện thoại của Nhi mà khi đến cầu Cái Tư thành phố Vị Thanh thì Chín liên hệ cho Nhi ra nhận, T đồng ý với tiền công thỏa thuận là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) khi thoả thuận xong Chín cho T biết hiện chiếc xe có gắn sẵn chìa khoá, có số tiền 2.000.000 đồng trong hộp đựng giầy tờ đang đậu ở gara xe Hoàng Đệ ở phường V, thành phố R , tỉnh Kiên Giang. Sau đó T lại gara xe Hoàng Đệ để nhận xe chạy đi và lấy trong hộp đựng giấy tờ số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), trong số tiền đó T mua dầu để đổ vào bình dầu của xe hết 900.000 đồng (Chín trăm nghìn đồng), còn lại 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm nghìn đồng) là tiền công ứng trước cho T, khi chạy xong chuyến T sẽ nhận được số tiền công còn lại. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày T đến địa điểm giao nhận dừa và thuốc lá tại khu vực giáp biên giới Campuchia thuộc huyện T, tỉnh Long An, T đậu xe nhận thuốc lá xếp lên xe tải xong thì chạy về Hậu Giang trên đường về Chín dặn T đi đường Quốc Lộ 80 và đổi biển số giả để trên xe nhưng T không đổi mà sử dụng biển số thật để chạy về. Đến khoảng 01 giờ ngày 16/07/2023, khi T điều khiển xe trên tuyến Quốc Lộ 80 thuộc khu vực ấp Đ, xã T, huyện T , tỉnh Kiên Giang thì bị lực lượng Cảnh sát Kinh tế Công an tỉnh Kiên Giang bắt quả tang Tuấn đang vận chuyển 25.500 (Hai mươi lăm nghìn năm trăm) bao thuốc lá điếu nhập lậu trong đó thuốc lá gồm các nhãn hiệu: HERO số lượng 18.000 bao, JET số lượng 6.900 bao, SCOTT số lượng 600 bao. Lực lượng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Kiên Giang đã phối hợp với chính quyền địa phương lập biên bản thu giữ phương tiện và số tang vật là thuốc lá nhập lậu và đưa T về phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Kiên Giang để điều tra làm rõ.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Kiên Giang tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thanh T về Tội Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự và chuyển vụ án đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T , tỉnh Kiên Giang điều tra theo quy định của pháp luật.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T , tỉnh Kiên Giang ban hành văn bản đến Sở Công thương tỉnh Kiên Giang về việc xác định 25.500 bao thuốc lá mà Cơ quan điều tra tạm giữ của Nguyễn Thanh T vận chuyển và bị bắt quả tang:

Công văn số 1554/SCT-QLTM ngày 04/10/2023 của Sở Công thương tỉnh Kiên Giang như sau:

Căn cứ Điều 37 Nghị định số 67/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và một số biện pháp thi hành Luật phòng, chống tác hại thuốc lá, có quy định Tem sản phẩm thuốc lá như sau:

“1. Sản phẩm thuốc lá sản xuất để tiêu thụ trong nước phải dán tem trên bao gói theo quy định hiện hành của Nhà nước.

……” Căn cứ Điều 22 Nghị định số 67/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và một số biện pháp thi hành Luật phòng, chống tác hại thuốc lá, có quy định về nhãn hiệu sản phẩm thuốc lá:

“1. Sản phẩm thuốc lá chỉ được tiêu thụ tại thị trường Việt Nam khi đã được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hợp pháp tại Việt Nam.

……” Căn cứ Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện; Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện có quy định: “Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác nhập lậu” thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh theo quy định tại Phụ lục I (Ban hành kèm theo Nghị định 59/2006/NĐ-CP).

Cáo trạng số 08/CT-VKSTH ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T , Kiên Giang truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm b khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích và đánh giá mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát huyện T đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên xử bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Đề nghị áp dụng: điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T mức án từ 05 năm đến 06 năm tù.

* Vật chứng thu giữ trong vụ án được xử lý như sau:

- Cơ quan Cảnh sát điều tra đả trả lại cho bà Trần Thị Ngọc B nhận 01 chiếc xe ôtô tải Biển kiểm soát 83H-007.xx đã qua sử dụng, 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô số: 83005717 của Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 11/07/2022, do Trần Anh T , sinh năm 1976, thường trú 292/2 đường T, Phường 2, thành phố S , tỉnh Sóc Trăng đứng tên giấy đăng ký, do không có liên quan đến vụ án.

- Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE số máy: MG9P3LL/A, số seri: G0NDNRT40DY đã qua sử dụng, bị bể mặt sau cho chị Lê Đào Khả A , do T mượn để sử dụng, không liên quan đến vụ án.

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 25.500 (Hai mươi lăm nghìn năm trăm) bao thuốc lá điếu nhập lậu, trong đó: 18.000 (Mười tám nghìn) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO; 6.900 (Sáu nghìn chín trăm) bao thuốc lá nhãn hiệu JET; 600 (Sáu trăm) bao nhãn hiệu SCOTT, do không còn giá trị sử dụng;

- Đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm ngàn đồng), tiền mà Nguyễn Thanh T đã nhận trước tiền công vận chuyển thuốc lá thuê cho người tên Chín, số tiền trên được tạm nộp tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam chi nhánh Kiên Giang, phòng giao dịch Tân Hiệp, vào tài khoản số 3949.0.xxxx190.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T , mở tại Kho bạc Nhà nước huyện T .

* Trách nhiệm dân sự:

Bà Trần Thị Ngọc B đã nhận lại chiếc xe ôtô tải Biển kiểm soát 83H - 007.xx đã qua sử dụng, 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô số: 83005717, không yêu cầu Nguyễn Thanh T hoặc người khác bồi thường thiệt hại gì thêm.

* Luật sư Bùi Thị T1 phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh T : Thống nhất với bản cáo trạng của đại diện Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo khoản 3 Điều 191 Bộ luật hình sự; cũng thống nhất với tình tiết giảm nhẹ mà Viện kiểm sát đã áp dụng cho bị cáo. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã nộp lại 1.100.000đồng tiền thu lợi bất chính, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn phải nuôi con còn nhỏ, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 xử phạt bị cáo thấp hơn mức án đề nghị của Viện kiểm sát cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo.

Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thức rõ hành vi sai trái của mình và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T , Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T , Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, với nội dung bản Cáo trạng, kết luận điều tra, cùng các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ và vật chứng đã thu giữ. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 01 giờ 30 phút, ngày 16/7/2023, bị cáo Nguyễn Thanh T được người tên Chín không xác định được nhân thân địa chỉ thuê điều khiển xe ô tô tải Biển số 83H-007.xx (xe Chín thuê xe của bà Trần Thị Ngọc B nói là để đi chở trái cây) chạy từ thành phố R, tỉnh Kiên Giang đến khu vực huyện T, tỉnh Long An có người lạ mặt không xác định được họ tên, địa chỉ đem lên xe 25.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu, trong đó gồm có: 18.000 bao thuốc lá hiệu HERO, 6.900 bao thuốc lá điếu hiệu JET, 600 bao thuốc lá điếu hiệu SCOTT để T vận chuyển đến khu vực cầu Cái Tư thành phố V thì Chín liên hệ cho bà Nhi ra nhận để lấy tiền công 4.000.000 đồng. Khi T điều khiển xe chạy đến khu vực ấp Đ, xã T, huyện T , tỉnh Kiên Giang thì bị lực lượng Cảnh sát Kinh tế Công an tỉnh Kiên Giang kiểm tra bắt quả tang. Bị cáo Nguyễn Thanh T đã nhận tiền công thu lợi bất chính từ việc Vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu với số tiền 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm ngàn đồng). Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về quản lý thuốc lá điếu nhập khẩu, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội và trật tự quản lý kinh tế tại địa phương. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện khắc phục 1.100.000đ tiền thu lợi bất chính, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 25.500 (Hai mươi lăm nghìn năm trăm) bao thuốc lá điếu nhập lậu, trong đó: 18.000 (Mười tám nghìn) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO; 6.900 (Sáu nghìn chín trăm) bao thuốc lá nhãn hiệu JET; 600 (Sáu trăm) bao nhãn hiệu SCOTT; do vật chứng bị cáo dùng vào việc phạm tội.

[6] Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải nộp số tiền 1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng) do bị cáo thu lợi bất chính mà có để nộp Ngân sách Nhà nước, số tiền trên được tạm nộp tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam chi nhánh Kiên Giang, phòng giao dịch Tân Hiệp, vào tài khoản số 3949.0.xxxx190.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T , mở tại Kho bạc Nhà nước huyện T .

[7] Đối với số thuê bao 0815552xxx theo lời khai của bị cáo T là số điện thoại của ông Chín người thuê bị cáo T vận chuyển hàng cấm vào ngày 16/07/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh thông tin thuê bao trên do Lê Văn T, sinh năm 1973, địa chỉ: ấp 5, xã V, huyện T, tỉnh Long An đăng ký thông tin chính chủ, tuy nhiên qua xác minh chủ thuê bao không có mặt ở địa phương đi đâu làm gì không rõ, hiện nay cũng không liên lạc được với số thuê bao trên.

Qua điều tra, xác minh xác định, chiếc xe ôtô tải Biển kiểm soát 83H-007.xx đã qua sử dụng, 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô số: 83005717 của Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Sóc Trăng cấp ngày 11/07/2022, do Trần Anh T , sinh năm 1976, thường trú 292/2 đường T, phường 2, thành phố S , tỉnh Sóc Trăng đăng ký chính chủ. Đến ngày 01/02/2023 ông T đã bán chiếc xe ô tô tải trên cho bà Trần Thị Ngọc B , địa chỉ phường A, thành phố R , tỉnh Kiên Giang với giá 180.000.000 đồng (Một trăm tám mươi triệu đồng), quá trình mua bán xe hai bên thoả thuận bằng giấy viết tay chưa được chứng thực, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm việc với ông Trần Anh T người đứng tên chủ sở hữu đã xác nhận việc đã bán tài sản trên cho bà Trần Thị Ngọc B . Trên cơ sở đó xác định tài sản trên thuộc quyền sở hữu của bà Trần Thị Ngọc B tuy chưa chuyển nhượng sang tên cho bà B. Bà Trần Thị Ngọc B có cho ông Chín thuê để chở trái cây không hay biết việc người tên Chín giao xe cho Nguyễn Thanh T thực hiện hành vi vận chuyển hàng cấm.

Đối với hai biển số xe 67C-085.xx và 64C-102xx thu được trên xe ô tải bị cáo T sử dụng để vận chuyển hàng cấm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiếp tục xác minh làm rõ khi có kết quả sẽ báo cáo xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

* Áp dụng: điểm b khoản 3 Điều 191; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 05 (năm) tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 16/7/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 25.500 (Hai mươi lăm nghìn năm trăm) bao thuốc lá điếu nhập lậu, trong đó: 18.000 (Mười tám nghìn) bao thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO;

6.900 (Sáu nghìn chín trăm) bao thuốc lá nhãn hiệu JET; 600 (Sáu trăm) bao nhãn hiệu SCOTT.

Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện T đang quản lý theo quyết định chuyển vật chứng số 06/QĐ-VKSTH ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T , tỉnh Kiên Giang.

3. Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải nộp số tiền 1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng) do bị cáo thu lợi bất chính mà có để nộp Ngân sách Nhà nước, số tiền trên được tạm nộp tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam chi nhánh Kiên Giang, phòng giao dịch Tân Hiệp, vào tài khoản số 3949.0.xxxx190.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T , mở tại Kho bạc Nhà nước huyện T , tỉnh Kiên Giang.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 11/2024/HS-ST

Số hiệu:11/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về