Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 10/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 10/2023/HS-ST NGÀY 10/03/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 10 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Q, sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT: thôn A, xã N, huyện T, tỉnh D; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn):

9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Đỗ Thị V; có vợ là Nguyễn Thị V và 01 con sinh năm 2012;

Tiền án:

- Bản án số 48/2019/HSST ngày 25/9/2019 của TAND huyện T xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/02/2020, chưa được xoá án tích.

- Bản án số 72/2020/HSST ngày 15/9/2020 của TAND huyện T xử phạt 14 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/8/2021, chưa được xoá án tích.

Nhân thân: Ngày 17/01/2019 bị Chủ tịch UBND xã Nguyên Giáp ra quyết định số 06/QĐ-UBND về áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn với thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 12/7/2019 bị TAND huyện T ra quyết định số 03/2019/QĐ-TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Văn Q thời hạn 18 tháng.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/12/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện T và Trại tạm giam Công an tỉnh D đến nay, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Bùi Đức Việt A, sinh năm 1987;

+ Anh Bùi Văn Đ, sinh năm 1982;

+ Anh Nguyễn Xuân S, sinh năm 1977;

+ Ông Nguyễn Phú V, sinh năm 1953;

+ Anh Phạm Thanh T, sinh năm 1979.

Những người làm chứng đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Q đã tái phạm chưa được xóa án tích. Khoảng 13 giờ ngày 29/9/2022, Q đang ở nhà thì nhận được điện thoại của nam thanh niên tên T, khoảng 30 tuổi ở xã C, huyện T. T nhờ Q đi ra khu vực cây xăng H II (cạnh đường 391) ở thôn Q, xã N, huyện T nhận hộ T thùng hàng, Q đồng ý. Sau đó Q đi bộ ra cây xăng H II thấy 01 nam thanh niên không quen biết đứng cạnh xe máy nhãn hiệu Honda, loại Dream, màu sơn nâu (Q không nhỡ rõ biển số) ở vị trí dưới một lán mái che bằng tôn cạnh lề bên phải đường tỉnh 391 (hướng thị trấn T đi ngã ba Q). Thấy Q, nam thanh niên hỏi “Anh có phải bạn của T không”?, Q trả lời “Đúng rồi”. Nam thanh niên chỉ tay vào 01 thùng bìa carton màu xám đặt trong lán cách vị trí Q đứng khoảng 02 đến 03m và nói với Q: “Đây, anh trông hộ T”. Q dùng tay bóc thùng bìa carton ra kiểm tra biết bên trong có chứa 03 hộp pháo hoa nổ và 02 bánh pháo nổ đều có tiếng Trung Quốc. Người thanh niên này đưa cho Q số tiền 1.000.000 đồng nhờ Q đưa cho nam thanh niên tên T, Q cầm tiền đút vào túi quần phía trước bên phải chiếc quần soóc đang mặc. Sau đó, người này lên xe máy điều khiển hướng về ngã ba Q, còn Q để thùng bìa carton ở vị trí cũ và sang quán đối diện bên kia đường tỉnh 391 ngồi uống nước, đợi T xuống lấy. Q ngồi đợi khoảng 40 phút thì T gọi điện bảo Q mang thùng bìa carton chứa pháo nổ về nhà Q, T sẽ xuống lấy sau, Q đồng ý. Tiếp đó, Q gọi điện cho anh Bùi Đức Việt A (là bạn) bảo anh Việt A ra cây xăng đón nhưng anh Việt A nói Anh không đi được”. Khoảng 14 giờ 08 phút cùng ngày, anh Việt A điểu khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Jupiter biển số 34B1-358… đến khu vực quán nước gặp Q thì Q hỏi “cho em mượn xe”, Việt A đồng ý. Q điều khiển xe máy sang vị trí lán tôn và bê thùng bìa carton chứa pháo đặt lên võng xe, rồi điều khiển xe đi về nhà ở thôn A, xã N, huyện T mục đích cất đi cho T. Khoảng 14 giờ 10 phút cùng ngày, khi Q đang di chuyển trên đường liên xã thuộc thôn A, xã N, do không làm chủ tốc độ nên Q đâm vào gốc cây trước cổng nhà anh Nguyễn Xuân S. Hậu quả Q bị thương được đưa đi cấp cấp tại Trung tâm y tế huyện T, thùng carton chứa pháo bị rơi xuống đường vị trí xe máy đổ. Cơ quan Công an huyện T lập biên bản vụ việc, thu giữ các vật chứng có liên quan.

Tại bản kết luận giám định số 6657 ngày 12/10/2022 của Viện khoa học hình sự- Bộ công an kết luận: 03 khối hình hộp, vỏ bọc giấy màu có in hoa văn chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối hộp gồm 36 vật hình trụ vỏ giấy được liên kết với nhau bằng dây ngòi đều là pháo nổ (pháo hoa nổ), có trọng lượng 4,35kg; các vật hình trụ, vỏ giấy màu đỏ, đầu mỗi vật có gắn dây ngòi được liên kết với nhau thành tràng (02 bánh hình tròn) đều là pháo nổ, có trọng lượng 2,97kg. Tổng trọng lượng pháo nổ là 7,32kg.

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKS-TK, ngày 15/02/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm l khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa: VKSND huyện T giữ nguyên quyết định định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): áp dụng điểm l khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q từ 24 đến 27 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), tịch thu tiêu hủy 01 thùng bìa carton; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Văn Q đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố, bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản vụ việc và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 14 giờ 10 phút, ngày 29/9/2022, tại trục đường liên xã thôn A, xã N, huyện T, tỉnh D, Nguyễn Văn Q đang có hành vi vận chuyển 7,32kg pháo nổ thì bị cáo tự đâm vào gốc cây bị tai nạn phải đi cấp cứu, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tiếp nhận, lập biên bản vụ việc, thu giữ cùng vật chứng.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ pháonổ là loại hàng cấm, không được phép sử dụng, lưu hành, song với mục đích nể nang, bị cáo cố ý vẫn vận chuyển cho đối tượng T. Số pháo là loại pháo hoa nổ và pháo nổ có tổngtrọng lượng là 7,32kg nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại Điều 191 BLHS. Do bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý, vì vậy, bị cáo phải phải chịu tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm l khoản 2 Điều 191 BLHS, như quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đối với bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các loại hàng hóa cấm kinh doanh, cấm lưu hành, chưa được phép sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo đã tái phạm chưa được xóa án tích lại phạm tội do lỗi cố ý thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nhưng do đây là yếu tố định tội nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Mặc dù vậy nhưng bị cáo đã hai lầnbị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, tuy nhiên sau đó bị cáo chưa thi hành Q định thì đã bị bắt tạm giam và phải đi chấp hành án phạt tù, tính đến ngày phạm tội lần này thì đã quá thời hạn thi hành Q định được coi chưa có tiền sự, nhưng điều đó chứng tỏ bị cáo là người có nhân thân không tốt. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Mặc dù quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, HĐXX sẽ xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, song dù có giảm nhẹ vẫn cần thiết buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để chấp hành hình phạt tù mới đủ tác dụng giáo dục riêng bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người không nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với số pháo hoa nổ và pháo nổ được hoàn lại sau khi giám định, đây là vật cấm lưu hành nênngày 31/10/2022, Công an huyện T đã thành lập Hội đồng tiêu hủy pháo nổ, ngày 01/11/2022, Hội đồngđã tiêu hủy toàn bộ số pháo là phù hợp nên không đặt ra giải quyết. Đối với 01 thùng bìa carton là vật chứng còn lại của vụ án không còn giá trị nên tịch thu cho tiêu hủy.

[8] Đối với chiếc xe mô tô bị cáo sử dụng làm phương tiện vận chuyển hàng cấm là của anh Bùi Đức Việt A cho bị cáo mượn, anh Việt A không biết bị cáo sử dụng để vẩn chuyển hàng cấm, trong quá trình vận chuyển bị cáo bị tai nạn dẫn đến xe bị hư hỏng. Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại chiếc xe cho anh Việt A, chủ sở hữu xe đã nhận lại phương tiện và tự sửa chữa, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra giải quyết.

[9] Theo lời khai của Q, ngày 29/9/2022 có nam thanh niên giao cho Q thùng pháo và số tiền 1.000.000 đồng bảo đưa cho T nhưng không nói rõ là tiền gì, người nhờ Q vận chuyển hộ thùng bìa carton chứa pháo cơ quan điều tra đã xác minh được là Phạm Huy T, sinh năm 1992, trú tại: thôn A, xã C, huyện T. Quá trình điều tra T không thừa nhận gọi điện nhờ Q vận chuyển hộ số pháo trên, ngoài lời khai của bị cáo thì không còn chứng cứ, tài liệu gì khác, đối với người giao thùng bìa carton chứa pháo nổ Q không rõ là ai, ở đâu, số tiền 01 triệu đồng trên đường đi Q đã đánh rơi không thu hồi được nên không có căn cứ để xử lý T cũng như người đưa pháo và số tiền trên là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào điểm l khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 25/12/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS; Tịch thu tiêu hủy 01 thùng bìa cát tông;

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/02/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 10/2023/HS-ST

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về