Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 09/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 13/01/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 13 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 197/2021/TLHS-ST ngày 21 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 266/2021/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Văn D; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 15/7/1992; Nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện Q, Nghệ An; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Lê Văn T; sinh năm 1965 và con bà: Trần Thị N, sinh năm 1970; Anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/10/2021 đến ngày 26/10/2021 sau đó áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị N, sinh năm 1970. Có mặt.

Nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện Q, Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ ngày 17/10/2021, Lê Văn D đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Trần Viết Đ nhờ D đi nhận hàng thì D đồng ý rồi điều khiển xe mô tô đi ra khu vực đường mới thuộc thôn L, xã T để nhận hàng. Khi đến điểm hẹn D nghe Đ nói đó là pháo thì đồng ý nhận và chở hàng. D theo chỉ dẫn của người phụ nữ, cầm bì xác rắn có chứa pháo bỏ lên xe mô tô của mình rồi điềukhiển về nhà. Đến khoảng 23 giờ 45 phút cùng ngày khi D điều khiển xe mô tô đi đến khu vực nhà văn hóa thôn L, xã T thì bị tổ Công tác phòng PC08 Công an tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang. Thu giữ một bì xác rắn màu xanh bên trong có 09 (Chín) hộp pháo, loại 36 quả; 01 (Một) điện thoại di động OPPO màu đen đã qua sử dụng và 01 (Một) xe mô tô Honda Wave RSX BKS 37L1-411.39.

Tại bản kết luận giám định số: 347/KL-PC09(Đ2-CN) ngày 22/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Các mẫu vật thu giữ của Lê Văn D gửi tới giám định đều là pháo, đều thuộc loại pháo nổ.

Cáo trạng số 08/CT-VKS-QL, ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Lê Văn D về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c, khoản 1, Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s, khoản 1 Điều 51, Điều 65, Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn D từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng về tội Vận chuyển hàng cấm. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) thùng cát tông màu nâu có kích thước (30x47x20) cm được niêm phong đúng quy định, bên trong có 07 (bảy) hộp pháo có kích thước giống nhau (14x14x10) cm còn lại sau khi lấy mẫu giám định;

Trả lại cho bị cáo: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng có số imel1: 869383037416674 có gắn thẻ sim 0386.018.803 và 01 (một) chiếc mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ đen gắn BKS 37L1-41139 đã qua sử dụng.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Lê Văn D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn D khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy Lời nói sau cùng bị cáo thấy hành vi phạm tội là sai trái, nhất thời phạm tội. Đề nghị HĐXX xem xét để bị cáo có thể cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 23 giờ 45 phút ngày 17/10/2021, tại khu vực nhà văn hóa thôn L, xã T, Lê Văn D đang có hành vi vận chuyển 09 bánh pháo nổ loại 36 quả có khối lượng 10,6 kg.

Hành vi của bị cáo thực hiện nêu trên phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng củaViện kiểm sát đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Quá trình phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật nhưng do coi thường pháp luật vẫn thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của Lê Văn D xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý một số loại hàng hóa bị cấm. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội cũng như tính mạng,sức khỏe và tài sản của người khác. Vì vậy,cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo,nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các tội phạm về hàng cấm nói riêng, đặc biệt là pháo. Tuy nhiên bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bà nội bị cáo đã tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ tổ quốc quy định tại điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ răn đe và giáo dục để bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[4] Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

01 (Một) thùng cát tông màu nâu có kích thước (30x47x20) cm được niêm phong đúng quy định, bên trong có 07 (bảy) hộp pháo có kích thước giống nhau (14x14x10) cm còn lại sau khi lấy mẫu giám định là hàng cấm cần tịch thu tiêu hủy;

01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng có số imel1: 869383037416674 có gắn thẻ sim 0386.018.803 không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

01 (một) chiếc mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ đen gắn BKS 37L1- 41139 được dùng tiền trong gia đình để mua và là phương tiện sử dụng trong gia đình nên trả lại cho bị cáo.

[5] Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên không phạt tiền bổ sung.

[6] Đối với Trần Viết Đ là người nhờ D đi chở Pháo, hiện nay Đ không có mặt tại địa phương, quá trình điều tra cơ quan điều tra đã triệu tập, xác minh nhưng chưa làm việc được nên chưa đủ căn cứ để xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi nào rõ sẽ xử lý sau.

Người phụ nữ đưa pháo cho D, không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu nên chưa có căn cứ để điều tra xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi nào rõ sẽ xử lý sau.

luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 191, điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn D 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng về tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Giao bị cáo Lê Văn D cho UBND xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An giam giữ; Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Vật chứng vụ án: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) thùng cát tông màu nâu có kích thước (30x47x20) cm được niêm phong đúng quy định, bên trong có 07 (bảy) hộp pháo có kích thước giống nhau (14x14x10) cm còn lại sau khi lấy mẫu giám định;

Trả lại cho bị cáo Lê Văn D: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng có số imel1: 869383037416674 có gắn thẻ sim 0386.018.803 và 01 (một) chiếc mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ đen gắn BKS 37L1-41139 đã qua sử dụng.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan CSĐT công an huyện Quỳnh Lưu và Chi cục Thi hành án dân sự hồi 8 giờ ngày 21/12/2021).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Lê Văn D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về