Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 30 tháng 3 và 01 tháng 4 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2022/TLST-HS, ngày 30 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXXST-HS, ngày 20 tháng 01 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/HSST-QĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022 và Thông báo mở lại phiên tòa xét xử vụ án hình sự số 14/TB-TA ngày 18 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Kim D (tên gọi khác: Hừng), sinh năm 1981; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi đăng ký HKTT : Khu vực T, phường T, Quận N, thành phố Cần Thơ ; Nơi ở hiện nay: ấp S, xã V, huyện C, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Hòa hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bảo L và bà Lê Thị H; chồng tên Võ Văn P; con 03 người, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền sự: không; Tiền án có 01 tiền án: 01 tiền án về tội “Buôn bán hàng cấm”, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xử phạt 01 năm tù, chấp hành xong vào ngày 10/11/2020 tạm giữ từ ngày 01/10/2021 đến 10/10/2021; bị cáo đang tại ngoại.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Thái Phạm T, sinh năm 1970. Địa chỉ: khu phố 1, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Ông Đặng Văn C, sinh năm 1979. Nơi đăng ký HKTT: ấp P, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang, Chỗ ở hiện nay: ấp B, xã V, huyện C, tỉnh Kiên Giang, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn C, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 01/10/2021, qua tiếp nhận thông tin của quần chúng nhân dân, xe ô tô tải biển kiểm soát 63K-xxxx do tài xế Thái Phạm T, sinh năm 1987 (trú tại khu phố 1, phường Vĩnh Lợi, thành phố Rạch Giá, Kiên Giang) điều khiển và người đi cùng xe là bà Nguyễn Thị Kim D, sinh năm 1981 (trú tại ấp S, xã V, huyện C, Kiên Giang) chạy từ hướng thành phố Hà Tiên về thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang có biểu hiện vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tiên phối hợp với Chốt liên ngành phòng, chống dịch bệnh Covid-19 tại khu vực Mũi Ông Cọp tại ấp H, xã T, thành phố Hà Tiên, dừng phương tiện để kiểm tra, phát hiện trên xe ô tô tải biển kiểm soát 63K-xxxx, có 05 thùng xốp và 01 thùng carton, do Nguyễn Thị Kim D quản lý, bên trong có cất giấu 4.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 2.500 bao nhãn hiệu HERO; 1.450 bao nhãn hiệu JET; 200 bao hiệu ESSE; 100 bao hiệu 555). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tiên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thị Kim D về hành vi “Vận chuyển hàng cấm”.

Qua điều tra, Nguyễn Thị Kim D khai nhận nguồn gốc 4.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu cất giấu trong 05 thùng xốp và 01 thùng carton, trên xe ô tô tải biển kiểm soát 63K-xxxx, là do D nhận chở thuê cho hai người phụ nữ và một người đàn ông (không rõ họ tên địa chỉ), tại khu vực cây xăng 17 và cây xăng 25 thuộc khu phố 3, phường T, thành phố Hà Tiên về thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Vật chứng trong vụ án:

1) 4.250 (bốn nghìn hai trăm năm mươi) bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO; 1.450 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET; 200 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu ESSE; 100 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu 555).

2) 01 (một) xe ô tô tải biển kiểm soát 63K-xxxx; loại xe tải mui phủ; màu sơn trắng; số máy: 119721, số khung: 004596 (xe đã qua sử dụng).

3) 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92, màu xanh đen, số IMEI1: 860621058025810; IMEI 2: 860621058025802 (đã qua sử dụng).

Các vật chứng mục số 1 hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên đề nghị tịch tiêu hủy; vật chứng mục số 2 đã trả lại cho ông Đặng Văn Công là người quản lý hợp pháp; vật chứng mục số 3 đã trả lại cho bị can Nguyễn Thị Kim D.

Tại Cáo trạng số 01/CT-VKSHT ngày 29/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên truy tố bị cáo Nguyễn Thị Kim D về tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội D Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kim D phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”. Áp dụng quy định tại điểm h khoản 1 điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm e khoản 2 Điều 191; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 4.250 (bốn nghìn hai trăm năm mươi) bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO; 1.450 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET; 200 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu ESSE; 100 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu 555) hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; Trả lại 01 (một) xe ô tô tải biển kiểm soát 63K- xxxx; loại xe tải mui phủ; màu sơn trắng; số máy: 119721, số khung: 004596 (xe đã qua sử dụng) cho ông Đặng Văn C là người quản lý hợp pháp; Trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92, màu xanh đen, số IMEI1: 860621058025810; IMEI 2: 860621058025802 (đã qua sử dụng) cho bị cáo Nguyễn Thị Kim D.

Về án phí: Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an thành phố Hà Tiên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là đúng pháp luật.

[2] Sự có mặt của những người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Văn C, Thái Phạm T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, người làm chứng ông Nguyễn Văn C đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông C, ông T, ông C theo quy định tại Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và chứng minh tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 01/10/2021, tại khu vực Mũi Ông Cọp thuộc ấp H, xã T, thành phố H, tỉnh Kiên Giang, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tiên phối hợp với lực lượng trực Chốt liên ngành phòng, chống dịch bệnh Covid-19 dừng xe ô tô tải biển kiểm soát 63K-xxxx do Nguyễn Thị Kim D quản lý, kiểm tra, phát hiện trên xe có vận chuyển 4.250 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 2.500 bao nhãn hiệu HERO; 1.450 bao nhãn hiệu JET; 200 bao nhãn hiệu ESSE;

100 bao nhãn hiệu 555), nên lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thị Kim D về hành vi “Vận chuyển hàng cấm”. Tại điểm e khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự, quy định như sau:

“Điều 191. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

e) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao;

…” Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước đối với thuốc lá điếu. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tài liệu về lý lịch thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, năm 2015 bị cáo từng bị xét xử về tội “Vận chuyển, buôn bán hàng cấm”, bị Tòa án nhân dân thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, xử phạt số tiền 25.000.000 đồng.

Bị cáo có 01 tiền án về tội “Buôn bán hàng cấm”, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, xử phạt 01 năm tù, chấp hành xong vào ngày 10/11/2020, chưa được xóa án tích, tiếp tục phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Áp dụng hình phạt: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo và đã nộp 300.000.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên. Tuy nhiên, xét thấy tình hình tội phạm về vận chuyển, buôn bán hàng cấm trên địa bàn thành phố Hà Tiên ngày càng có chiều hưóng gia tăng với tính chất phức tạp, vì vậy cần xử lý nghiêm đối với loại tội phạm này. Bản thân bị cáo vào năm 2015 đã từng bị Tòa án nhân dân thị xã Hà Tiên (nay là thành phố Hà Tiên) xử phạt tiền về tội “Vận chuyển, buôn bán hàng cấm”, đến năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xử phạt 01 năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm”, tuy nhiên bị cáo vẫn không sửa đổi, không chấp hành pháp luật mà tiếp tục phạm tội, Do đó cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo sao cho vừa đảm bảo tính giáo dục, vừa răn đe, phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận và phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian đủ để cải tạo bị cáo thành công dân tốt, biết tôn trọng pháp luật, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 4.250 (bốn nghìn hai trăm năm mươi) bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO; 1.450 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET; 200 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu ESSE; 100 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu 555) hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; Trả lại 01 (một) xe ô tô tải biển kiểm soát 63K-xxxx; loại xe tải mui phủ; màu sơn trắng; số máy: 119721, số khung: 004596 (xe đã qua sử dụng) cho ông Đặng Văn Công là người quản lý hợp pháp; Trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92, màu xanh đen, số IMEI1: 860621058025810; IMEI 2: 860621058025802 (đã qua sử dụng) cho bị cáo Nguyễn Thị Kim D.

[8] Án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm e khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kim D phạm tội “ Vận chuyển hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/10/2021 đến 10/10/2021.

2. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 4.250 (bốn nghìn hai trăm năm mươi) bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 2.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO; 1.450 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET; 200 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu ESSE; 100 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu 555), hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

Giữ nguyên quyết định xử lý vật chứng số 13/QĐ-ĐCSHS-KTMT ngày 28/10/2021 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tiên về việc trả lại 01 (một) xe ô tô tải biển kiểm soát 63K-xxxx; loại xe tải mui phủ; màu sơn trắng; số máy: 119721, số khung: 004596 (xe đã qua sử dụng) cho ông Đặng Văn C; trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92, màu xanh đen, số IMEI1: 860621058025810; IMEI 2: 860621058025802 (đã qua sử dụng) cho bị cáo Nguyễn Thị Kim D.

3. Án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trả lại số tiền 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) bị cáo nộp tạm thu chờ xử lý theo biên lai thu số 0000275 ngày 01/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển hàng cấm số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về