TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 13/07/2021 VỀ TỘI TRỒNG CÂY THUỐC PHIỆN
Ngày 13 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2021/TLST- HS ngày 25 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:37/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021, quyết định hoãn phiên tòa số:12/2021/QĐ-HSST ngày 25 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
1. Hoàng Văn C, sinh ngày 14 tháng 11 năm 1974 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn X, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 07/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Đ (đã chết) và bà Phùng Thị P (đã chết); vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1975; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa từng bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữu Công an huyện Hữu Lũng từ ngày 17/3/2021 đến nay. Có mặt.
2. Nguyễn Thị L, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1975 tại huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn X, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Chí Q, sinh năm 1948 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1950; chồng: Hoàng Văn C, sinh năm 1974; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa từng bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hữu Lũng từ ngày 17/3/2021 đến ngày 09/4/2021 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn C: Ông Hoàng Văn L – Luật sư trợ giúp pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
Người làm chứng: Chị Hoàng Khánh L, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn X, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 8 năm 2020 (âm lịch) Hoàng Văn C đến thành phố L, tỉnh Lạng Sơn chơi thì gặp một người đàn ông giới thiệu là quê ở huyện L, tinh Lạng Sơn và được người này cho 02 quả thuốc phiện khô. C mang về cất trong nhà với mục đích để trồng làm rau ăn. Đến khoảng tháng 11 năm 2020 (âm lịch), Hoàng Văn C cuốc hai luống đất trong vườn của gia đình tại vị trí sát tường bao bên phải theo hướng từ ngoài cổng đi vào. Sau khi làm đất xong, Hoàng Văn C nói với vợ là Nguyễn Thị L về việc C xin được 02 quả thuốc phiện khô và bảo L lấy hạt từ hai quả thuốc phiện đó reo xuống hai luống đất mà C đã cuốc. Nguyễn Thị L đập hai quả thuốc phiện ra, lấy hạt trộn với thuốc chống kiến rồi gieo xuống một luống đất thì hết hạt. Khi cây thuốc phiện lên cao được khoảng 04cm đến 05cm, Hoàng Văn C thấy mật độ cây dày nên đã đánh bớt sang trồng thêm được 1/3 luống thứ hai ở vị trí sát tường bao.
Sau đó, Hoàng Văn C tưới nước, bón đạm và rắc tro; Nguyễn Thị L tưới nước cho cây phát triển. Khi cây lớn, Hoàng Văn C nhổ 02 lần và Nguyễn Thị L nhổ 01 lần để xào ăn thay rau. Đến ngày 08/02/2021 thì bị Công an xã Hòa Thắng phát hiện, nhổ và kiểm đếm được tổng số 1.685 cây, trong đó có 1.978 cây cao từ 10cm đến 20cm, 484 cây cao từ 21cm đến 30cm, 106 cây cao từ 31cm đến 44cm và 17 cây cao từ 45cm đến 50cm.
Tại bản kết luận giám định số 1187/C09-TT2 ngày 26/02/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Các mẫu cây gửi giám định là những cây thu giữ tại vườn của gia đình Nguyễn Thị L đều có chứa chất Morphine, Codeine, Thebaine, Papaverine và Narcotine là các Alkaloid chính có trong nhựa cây thuốc phiện.
Morphine, Thebaine, Codeine là các chất ma túy nằm trong Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.
Ngày 05/4/2021, Nguyễn Thị L giao nộp một máy bơm nước nhãn hiệu KU & FA, vở ngoài bằng kim loại, màu sơn xanh, phần dây điện bị dứt và một chiếc cuốc, phần lưỡi bằng kim loại đã han gỉ, phần cán bằng gỗ dài 02m.
Về vật chứng của vụ án:
- Toàn bộ số cây thuốc phiện tạm giữ tại vườn của gia đình Nguyễn Thị L là do Hoàng Văn C trồng để sử dụng.
- Chiếc cuốc và máy bơm nước là công cụ Hoàng Văn C và Nguyễn Thị L sử dụng trong quá trình trồng, chăm sóc cây thuốc phiện.
Sau khi làm rõ, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng đã tiêu hủy toàn bộ số cây thuốc phiện còn lại sau khi trích mẫu vật gửi giám định theo quy định, những vật chứng còn lại hiện đang tạm giữ.
Việc Hoàng Văn C khai nhận, 02 quả thuốc phiện khô do Chiều được một người đàn ông cho tại thành phố Lạng Sơn, tuy nhiên bị cáo không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người này nên không có cơ sở để điều tra làm rõ.
Tại bản Cáo trạng số 44/CT-VKSHL-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn C và Nguyễn Thị L về tội Trồng cây thuốc phiện theo điểm c khoản 1 Điều 247 của Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn C phạm tội Trồng cây thuốc phiện và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 247, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 07 đến 10 tháng tù giam.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội Trồng cây thuốc phiện và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 247, điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 17, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 đến 08 tháng tù cho hướng án treo, thời gian thử thách 01 năm đến 01 năm 04 tháng.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 máy bơm nước dán nhãn KU&FA, được sơn màu xanh, đã cũ, có phần dây điện bị đứt, có vỏ ngoài bằng kim loại;
- Tịch thu tiêu hủy 01 cuốc có phần lưỡi làm bằng kim loại, đã cũ gỉ, phần cán làm bằng gỗ dài 2m, đã qua sử dụng.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng các bị cáo trình bày đã ăn năn hối cải xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có ai có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng tháng 8/2020 (âm lịch), Hoàng Văn C được một người đàn ông không quen biết cho 02 quả thuốc phiện khô, sau đó cất trong nhà. Đến tháng 11/2020 (âm lịch), Hoàng Văn C cuốc 02 luống đất trong vườn nhà tại Thôn X, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Nguyễn Thị L đập 02 qủa thuốc phiện trên, lấy hạt rồi gieo xuống một luống đất do Hoàng Văn C mới cuốc. sau khi cây mọc, Hoàng Văn C đánh bớt một số cây trồng sang luống bên cạnh. Hoàng Văn C, Nguyễn Thị L cùng tưới nước, chăm sóc cho cây phát triển và nhổ để xào ăn. Đến ngày 08/02/2021 thì bị Công an xã Hòa Thắng, huyện Hữu Lũng phát hiện, kiểm đếm được 1.685 cây. Do đó, hành vi đã đủ yếu tố cấu thành tội Trồng cây thuốc phiện theo điểm c khoản 1 Điều 247 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về ma túy, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo biết ma túy Nhà nước cấm buôn bán, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội để phục vụ nhu cầu của bản thân. Do đó, hành vi của các bị cáo cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
[4] Về nhân thân: Các bị cáo không có tiền án, tiền sự nên xác định có nhân thân tốt.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Thị L có bố đẻ là ông Nguyễn Chí Q được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất và nhiều kỷ niệm chương nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.
[7] Trên cơ sở xem xét, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy bị cáo Nguyễn Thị L có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Đối với bị cáo Hoàng Văn C cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Như vậy, mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.
[8] Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập chỉ đủ trang trải cuộc sống hàng ngày nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng đối với bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[10] Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 máy bơm nước dán nhãn KU&FA, được sơn màu xanh, đã cũ, có phần dây điện bị đứt, có vỏ ngoài bằng kim loại, do là công cụ phục vụ hành vi phạm tội.
[11] Tịch thu tiêu hủy 01 cuốc có phần lưỡi làm bằng kim loại, đã cũ gỉ, phần cán làm bằng gỗ dài 2m, đã qua sử dụng, do không còn giá trị sử dụng.
[12] Về án phí: Do các bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng sung công quỹ nhà nước, theo quy định tại khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn C, Nguyễn Thị L phạm tội Trồng cây thuốc phiện.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 247; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38, xử phạt bị cáo Hoàng Văn C 07 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giam ngày 17/3/2021.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 247; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 13/7/2021. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 máy bơm nước dán nhãn KU&FA, được sơn màu xanh, đã cũ, có phần dây điện bị đứt, có vỏ ngoài bằng kim loại;
- Tịch thu tiêu hủy 01 cuốc có phần lưỡi làm bằng kim loại, đã cũ gỉ, phần cán làm bằng gỗ dài 2m, đã qua sử dụng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/6/2021 giữa Công an huyện Hữu Lũng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn)
4. Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Văn C, Nguyễn Thị L mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội trồng cây thuốc phiện số 39/2021/HS-ST
Số hiệu: | 39/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về