TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 90/2021/HS-ST NGÀY 10/08/2021 VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM
Ngày 10 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2021/HSST ngày 19 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2021/QĐXXST-HS, ngày 26 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Trọng T, sinh năm: 1995; Giới tính: Nam; Nơi sinh: thành phố H; Nơi cư trú: thôn U, xã T, huyện K, thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Phạm Thị L, sinh năm 1969; vợ: Ngô Thùy T, sinh năm 1997 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2017; Tiền sự: Không; Tiền án: Bản án số 32/2013/HSST ngày 25/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 06 năm tù về tội Cướp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2016, thi hành xong án phí ngày 28/6/2013 (chưa được xóa); Bản án số 05/2018/HSST ngày 28/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện A xử 10 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản, đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam X (chưa được xóa); Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can để tạm giam từ ngày 29/4/2021; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Trọng T là phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù về tội Cướp tài sản tại Đội 12, phân trại số 3 thuộc Trại giam X của Bộ Công An có trụ sở tại xã Lại Xuân, huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Do bản thân T bị bệnh chèn ép rễ thần kinh, lệch đĩa đệm đốt sống dẫn đến liệt chân phải, đi lại khó khăn nên đã được Trại giam X đưa đến Bệnh viện Phục hồi chức năng H để điều trị từ ngày 14/12/2020 tại khu nhà C phòng 12 khoa Phục hồi chức năng. Đến ngày 02/02/2021, sau khi nghe bác sĩ điều trị thông báo T sẽ được xuất viện trở về Trại giam X tiếp tục thi hành án từ ngày 03/02/2021. Do không muốn về Trại giam X nên T đề nghị bác sĩ điều trị cho tiếp tục được điều trị tại bệnh viện nhưng không được chấp thuận nên T nảy sinh ý định trốn khỏi nơi giam giữ. Thực hiện ý định của mình, T đã lén lấy điện thoại di động (nhặt được trước đó) liên lạc với Hồ Đình T, sinh năm 1995 trú tại thôn T, xã A, huyện A, thành phố H là bạn làm nghề lái xe taxi, hẹn T khoảng trưa ngày 03/02/2021 đến bệnh viện đón chở đi N. Khoảng 12 giờ ngày 03/02/2021, T giả vờ lấy cớ muốn đi vệ sinh rồi đề nghị cán bộ quản giáo đang làm nhiệm vụ trông coi T ở bệnh viện tháo còng, xiềng xích ở tay chân. Lợi dụng lúc cán bộ quản giáo không để ý, T đã cởi bỏ T phục bệnh nhân, vứt lại khu vực nhà vệ sinh ngay sát phòng điều trị của T, rồi lẻn ra ngoài, đến điểm hẹn với T. Cả hai đi đến địa phận tỉnh N, T nói dối T đi vào nhà người quen có việc, hẹn T hôm sau quay lại đón, chưa thanh toán tiền xe cho T. Sau đó, T đón xe khách Bắc Nam đi đến tỉnh B thì bị bắt theo lệnh truy nã của Trại giam X vào hồi 16 giờ 30 ngày 04/02/2021.
Theo các anh Trần Văn H và anh Phạm Văn G là cán bộ quản giáo Trại giam X là những người có nhiệm vụ trực tiếp trông coi T trong thời gian điều trị tại bệnh viện trình bày như nội dung nêu trên. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, hai anh đã mất cảnh giác để T bỏ trốn khỏi bệnh viện từ 12 giờ 10 phút ngày 03/02/2021. Sau đó T đã bị bắt, các anh đã báo cáo, kiểm điểm trách nhiệm với Lãnh đạo Trại giam X để xem xét kỉ luật.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Trọng T khai phù hợp như nội dung nêu trên. T đã xin mẹ đẻ là bà Phạm Thị L, sinh năm 1969 trú tại thôn U, xã T, huyện K, thành phố H tiền để ăn thêm trong khi điều trị tại bệnh viện nhiều lần. T không dùng đến mà tích cóp lại để dành sử dụng khi trốn khỏi bệnh viện. T không bàn bạc với T trốn khỏi nơi giam, T chưa thanh toán tiền taxi cho T. T nói dối T đến nhà người quen, giả vờ hẹn T hôm sau quay lại đón để T không đòi tiền chở taxi. Ngay sau đó, T đón xe khách Bắc Nam để tiếp tục bỏ trốn đến ngày 04/2/2021 thì bị bắt tại B.
Anh Hồ Đình T và bà Phạm Thị L trình bày: anh T và T là bạn bè cùng học cấp 2 với nhau, không biết T đang đi chấp hành án. Anh T không biết T trốn khỏi nơi giam, T chưa thanh toán tiền thuê xe taxi cho anh T. Bà L cho T tiền để mua thêm đồ ăn bồi dưỡng trong khi điều trị tại bệnh viện. Bà L và anh T đều không biết T trốn khỏi nơi giam.
Bản cáo trạng số: 94/CT-VKS ngày 19/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên đã truy tố Nguyễn Trọng T về tội "Trốn khỏi nơi giam" theo quy định tại khoản 1 Điều 386 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trọng T khai nhận và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Trọng T về tội “Trốn khỏi nơi giam” theo khoản 1 Điều 386 của Bộ luật hình sự và đề nghị, Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 56 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T từ 12 đến 15 tháng tù, tổng hợp hình phạt còn lại bị cáo chưa chấp hành tại bản án số 05/2018/HSST ngày 28/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện A là 06 năm 11 tháng 05 ngày buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung; về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tuyên tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Core màu trắng đã qua sử dụng, gắn sim số 0789108754; 01 chiếc sạc dự phòng X mobile; 01 dây sạc tại biên bản G nhận vật chứng và phiều nhập kho ngày 12/7/2021; trả lại cho bị cáo số tiền 703.000 đồng, song cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án; Về án phí: Bị cáo Nguyễn Trọng T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan này trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ căn cứ kết luận: Nguyễn Trọng T là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam X – H, trong quá trình chấp hành án do bị bệnh nên bị cáo được đưa đến cơ sở chữa bệnh là Bệnh viện Phục hồi chức năng H từ ngày 14/12/2020, trong quá trình điều trị bệnh đến ngày 03/02/2021 lợi dụng sơ hở của các bộ quản giáo đang trực tiếp trông coi tại bệnh viện, bị cáo đã có hành vi bỏ trốn khỏi bệnh viện đi đến tỉnh B thì bị bắt theo quyết định truy nã của trại giam X ngày 04/02/2021. Với hành vi trên, bị cáo Nguyễn Trọng T đã phạm tội “Trốn khỏi nơi giam” theo khoản 1 Điều 386 của Bộ luật hình sự.
Bản cáo trạng số 94/CT-VKSTN ngày 19 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố bị cáo như đã nêu trên là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ giam, giữ cải tạo phạm nhân đồng thời xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan thi hành án hình sự. Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo.
[4] Xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhân thân bị cáo, tính chất vụ án và quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử, xét:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Trọng T đã có 02 tiền án về tội cướp tài sản chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là tái phạm nguy hiểm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải ngoài ra bị cáo có ông ngoại là Phạm Văn Át được tặng thưởng huân, huy, chương và bằng khen, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong vụ án cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên tòa tuy bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, tuy nhiên bị cáo đã có 02 tiền án đều chưa được xóa án tích, trong thời gian chấp hành án bị bệnh tật được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước đưa đi chữa bệnh nhưng bị cáo không chấp hành mà còn bỏ trốn nên cần áp dụng hình phạt nghiêm thì mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[6] Về xử lý vật chứng - 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Core màu trắng đã qua sử dụng, gắn sim số 0789108754; 01 chiếc sạc dự phòng X mobile; 01 dây sạc tại biên bản G nhận vật chứng và phiều nhập kho ngày 12/7/2021, tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố H, cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.
- Số tiền 703.000 đồng thu giữ của bị cáo tại biên lai thu tiền số 0001101, ngày 14/7/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố H, cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[5] Về án phí Bị cáo Nguyễn Trọng T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; khoản 2, Điều 56 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử: Phạt bị cáo Nguyễn Trọng T 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”. Tổng hợp với hình phạt chưa chấp hành tại bản án số 05/2018/HSST ngày 28/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện A là 06 năm 11 tháng 05 ngày buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 08 (tám) năm 05 tháng 05 ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 29/4/2021.
2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:
- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Core màu trắng đã qua sử dụng, gắn sim số 0789108754; 01 chiếc sạc dự phòng X mobile; 01 dây sạc tại biên bản G nhận vật chứng và phiếu nhập kho ngày 12/7/2021, tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố H.
- Tạm giữ số tiền 703.000 đồng thu giữ của bị cáo tại biên lai thu tiền số 0001101, ngày 14/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố H, để đảm bảo thi hành án.
3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Trọng T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội trốn khỏi nơi giam số 90/2021/HS-ST
Số hiệu: | 90/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về