Bản án về tội trốn khỏi nơi giam số 09/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CX, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 09/2024/HS-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM

Ngày 21 tháng 3 năm 2024, tại Phân trại số 2 - Trại giam Xuân Hà - Bộ Công an, mở phiên toà lưu động xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 06/2024/HSST ngày 20/02/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2024/QĐXXST-HS ngày 06/3/2024 đối với:

* Bị cáo Phan Công T, sinh ngày: 25/8/1987, tại xã Thạch C, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Kim N, xã Thạch C, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông Phan Công S, sinh năm 1960 và con bà Phan Thị H, sinh năm 1968, trú tại thôn Kim N, xã Thạch C, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Vợ Đồng Thị O, sinh năm 1991, trú tại thôn Kim N, xã Thạch C, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Con: 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án: Có 02 tiền án:

- Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2022/HS-ST ngày 24/5/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt Phan Công T 15 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự, với tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên”.

- Bản án hình sự sơ thẩm số: 69/2023/HS-ST ngày 17/4/2023 của Toà án nhân dân thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Phan Công T 04 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 15 năm tù tại Bản án số 21/2022/HSST ngày 24/5/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Buộc Phan Công T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 19 (Mười chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/4/2021. Hiện đang chấp hành Quyết định thi hành án phạt tù số 133/2023/QĐ-CA ngày 23/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, tại Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà, Cục C10, Bộ Công an, đóng tại địa phận thôn Vinh Sơn, xã CS, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh; chưa thi hành phần thi hành án dân sự của cả hai bản án.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 07/01/2013, bị Toà án nhân dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng 02 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội “Đánh bạc”, theo quy định tại Khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, tại Bản án số 02/2013/HSST; đã chấp hành xong bản án, đương nhiên được xóa án tích.

Bị cáo đang chấp hành án phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 01/01/2024 đến ngày 01/5/2024, theo Lệnh trích xuất phạm nhân số 12483/LTX, ngày 29/12/2023 của Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ công an. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị cáo Nguyễn Đắc H, sinh ngày 03/02/1984, tại xã Cẩm N, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Hải B, xã cẩm N, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá:

Lớp 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đảng phái: Quần chúng; Con ông Nguyễn Đắc H; (Đã chết) và con bà Hoàng Thị C, sinh năm 1956, trú tại thôn Hải B, xã cẩm N, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh; Vợ Hồ Thị M, sinh năm 1987, trú tại thôn Hải B, xã cẩm N, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh; Con: 03 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án: Có 01 tiền án:

Bản án hình sự sơ thẩm số: 117/2017/HSST, ngày 10/11/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt Nguyễn Đắc H 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, theo quy định tại Điểm c Khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Hiện đang chấp hành Quyết định thi hành án phạt tù số 242/2017/QĐ-CA ngày 12/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, tại Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà, Cục C10, Bộ Công an đóng tại địa phận thôn Vinh Sơn, xã CS, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 25/01/2011, bị Toà án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999, tại Bản án số 18/2011/HSST; đã chấp hành xong bản án, đương nhiên được xóa án tích.

Bị cáo đang chấp hành án phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 01/01/2024 đến ngày 01/5/2024, theo Lệnh trích xuất phạm nhân số 12484/LTX, ngày 29/12/2023, của Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ công an. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Đào Minh V, sinh năm 1984; Nghề nghiệp: Cán bộ quản giáo (Có mặt) mặt) mặt) mặt) + Anh Lê Phi T, sinh năm 2001; Nghề nghiệp: Cán bộ canh gác (Có mặt) + Anh Đặng Trường T, sinh năm 1986; Nghề nghiệp: Cán bộ canh gác (Có + Anh Nguyễn Hồng S, sinh năm 1993; Nghề nghiệp: Cán bộ canh gác (Có + Anh Nguyễn Thống N, sinh năm 1986; Nghề nghiệp: Cán bộ canh gác (Có Địa chỉ: Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà - Bộ Công an, đóng tại thôn Vinh Sơn, xã CS, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh - Người làm chứng:

+ Anh Mai Đậu T, sinh năm 1985 (Có mặt) + Anh Đào Văn N, sinh năm 1987 (Có mặt) + Anh Nguyễn Trí H, sinh năm 1971 (Có mặt) Địa chỉ: Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà - Bộ Công an, đóng tại thôn Vinh Sơn, xã CS, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Công T và Nguyễn Đắc H là phạm nhân đang chấp hành án tại Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà, Cục C10, Bộ Công an đóng tại địa phận thôn Vinh Sơn, xã CS, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 06/12/2023, Nguyễn Đắc H và Phan Công T cùng với 28 phạm nhân khác trong Đội phạm nhân số 28, thuộc Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà, Cục C10, Bộ Công an được cán bộ quản giáo Đào Minh Vũ dẫn giải từ khu buồng giam đến khu lao động thuộc Khu nhà xưởng bóc tách long nhãn, thuộc Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà, để tiến hành lao động. Trực canh gác, bảo vệ Khu nhà xưởng gồm có: anh Đặng Trường T, cấp bậc: Đại úy; anh Nguyễn Hồng S, cấp bậc: Trung úy và anh Lê Phi T, cấp bậc: Thượng sỹ, thuộc Trung đội cảnh sát bảo vệ của Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà. Đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày, H và T lần lượt xin phép cán bộ quản giáo Đào Minh V đi vệ sinh và được cán bộ quản giáo đồng ý. Trong lúc đi vệ sinh, quan sát thấy trời mưa to, xung quanh khu vực xưởng ít người qua lại nên Phan Công T rủ Nguyễn Đắc H cùng nhau bỏ trốn khỏi Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà, H đồng ý. Phan Công T và Nguyễn Đắc H đi ra khỏi nhà vệ sinh, đi dọc theo hành lang xưởng làm việc đến khu vực hai contener đông lạnh trong xưởng là khu vực khuất tầm nhìn của cán bộ canh gác rồi đi qua hàng rào lưới B40 của xưởng, đi vòng qua khu nhà ở của công nhân rồi chạy qua đường, trèo qua hàng rào thép gai của Phân trại số 2, chạy băng qua khu đất trống lên khu vực đồi núi.

Sau khoảng 05 phút, cán bộ quản giáo Đào Minh V tiến hành điểm danh phạm nhân thấy thiếu hai phạm nhân Phan Công T và Nguyễn Đắc H nên đã tiến hành tìm kiếm xung quanh khu vực nhà xưởng. Đến khoảng 16 giờ 10 phút cùng ngày, cán bộ quản giáo Đào Minh V, tìm kiếm hai phạm nhân Phan Công T và Nguyễn Đắc H không có kết quả, xác định hai phạm nhân đã bỏ trốn nên đã báo cáo chỉ huy Phân trại số 2 và lãnh đạo Trại giam Xuân Hà. Sau khi nhận được thông báo, anh Đặng Trường T bắn ba phát súng báo động để chỉ huy và các bộ phận khác biết để tổ chức lực lượng truy bắt. Chỉ huy Phân trại số 2 và lãnh đạo Trại giam Xuân Hà đã triển khai phối hợp với Công an, chính quyền địa phương tiến hành truy bắt hai phạm nhân. Ngày 07/12/2023, Trại giam Xuân Hà ra Quyết định truy nã với Phan Công T và Nguyễn Đắc H. Sau khi trốn khỏi Trại giam Xuân Hà, T và H lẫn trốn xuyên qua các núi đi về địa phận xã Cẩm Lạc, xã Cẩm Minh, huyện CX. Đến khoảng 01 giờ 45 phút ngày 09/12/2023, khi T và H vừa đi qua hồ nước, đi đến khu vực nhà dân thuộc địa phận thôn X, xã Cẩm M, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh thì bị Tổ công tác của Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà phát hiện, bắt giữ (cách nơi giam giữ khoảng 05 Km), áp giải về Phân trại số 2 tiếp tục thi hành án. Ngày 05/01/2024, Phan Công T và Nguyễn Đắc H được trích xuất từ Trại giam Xuân Hà đến Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh để phục vụ công tác điều tra vụ án.

Với hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số: 06/CT-VKSCX ngày 16/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố Phan Công T, Nguyễn Đắc H về tội “Trốn khỏi nơi giam” theo quy định tại Khoản 1 Điều 386 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CX giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt:

+ Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm h Khoản 1 Điều 52; tiết đầu Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Công T mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Tổng hợp hình phạt với thời gian chấp hành án còn lại của Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2023/HS-ST, ngày 17/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên tính đến ngày bỏ trốn 06/12/2023 là 16 năm 04 tháng 18 ngày. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 18 năm 04 tháng 18 ngày đến 18 năm 10 tháng 18 ngày, thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2023.

+ Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm h Khoản 1 Điều 52; tiết đầu Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đắc H mức án từ 20 đến 24 tháng tù. Tổng hợp hình phạt với thời gian chấp hành án còn lại của Bản án số 117/2017/HS-ST, ngày 10/11/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An tính đến ngày bỏ trốn 06/12/2023 là 13 năm 05 tháng 23 ngày. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 15 năm 01 tháng 23 ngày đến 15 năm 05 năm tháng 23 ngày, thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2023.

- Về án phí: Buộc Phan Công T và Nguyễn Đắc H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí HSST.

Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1] Về tính hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an huyện CX, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CX, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Bị cáo Phan Công T và Nguyễn Đắc H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo là khách quan, phù hợp với Cáo trạng đã truy tố, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Phan Công T và Nguyễn Đắc H là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại Đội phạm nhân số 28, thuộc Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà, Cục C10, Bộ Công an, đóng trên địa bàn thôn Vinh Sơn, xã CS, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh. Khoảng 15 giờ 50 phút ngày 06/12/2023, trong khi đang lao động cải tạo tại Khu nhà xưởng bóc tách long nhãn, Phân trại số 2, Trại giam Xuân Hà, lợi dụng địa hình có sự che khuất tầm nhìn và sự mất cảnh giác của cán bộ quản giáo, T rủ H cùng nhau bỏ trốn khỏi Phân trại số 2. Sau khi trốn khỏi Phân trại số 2, T và H lẫn trốn xuyên qua các núi đi về địa phận xã Cẩm Lạc, xã Cẩm Minh, huyện CX. Đến khoảng 01 giờ 45 phút ngày 09/12/2023, bị Tổ công tác của Phân trại số 2 phát hiện, bắt giữ tại địa phận thôn 5, xã Cẩm Minh, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh.

Hành vi trên của bị cáo Phan Công T và Nguyễn Đắc H đã cấu thành tội “Trốn khỏi nơi giam”, tội danh và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 386 Bộ luật hình sự. Do đó, việc xét xử các bị cáo về tội danh, điều luật như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phan Công T và Nguyễn Đắc H đều phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm”, theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo”, theo quy định tại tiết đầu Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tính chất hành vi phạm tội và hình phạt: Hành vi trốn khỏi nơi giam của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ giam giữ, quản lý, cải tạo phạm nhân, xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hình sự, đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong nhân dân. Các bị cáo đều là phạm nhân chấp hành án nhưng không lấy đó làm bài học sữa chữa sai lầm mà còn tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và cần phải tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung. Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, không có sự phân công, tổ chức, trong đó bị cáo Phan Công T là người khởi xướng việc bỏ trốn và thực hiện tích cực nên phải chịu mức án cao hơn bị cáo Nguyễn Đắc H; bị cáo Nguyễn Đắc H đồng phạm với vai trò thực hành tích cực.

Đối với bị cáo Phan Công T: Bản án hình sự sơ thẩm số: 69/2023/HS-ST ngày 17/4/2023 của Toà án nhân dân thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Phan Công T 04 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự. Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt 15 năm tù tại Bản án số 21/2022/HSST ngày 24/5/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, buộc Phan Công T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 19 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/4/2021. Tính đến ngày bỏ trốn 06/12/2023, Phan Công T đã thi hành án được 02 năm 07 tháng 12 ngày, thời gian còn lại chưa thi hành là 16 năm 04 tháng 18 ngày. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt của tội đang xét xử và tổng hợp với hình phạt còn lại của Bản án số 69/2023/HS-ST ngày 17/4/2023, thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2023.

Đối với bị cáo Nguyễn Đắc H: Bản án hình sự sơ thẩm số 117/2017/HSST, ngày 10/11/2017 của Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt Nguyễn Đắc H 20 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 29/5/2017. Tính đến ngày bỏ trốn 06/12/2023, Nguyễn Đắc H đã thi hành án được 06 năm 06 tháng 07 ngày, thời gian còn lại chưa thi hành là 13 năm 05 tháng 23 ngày. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt của tội đang xét xử và tổng hợp với hình phạt còn lại của Bản án số 117/2017/HSST, ngày 10/11/2017, thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2023.

[5] Trong vụ án có anh Đào Minh V (Cán bộ quản giáo), anh Đặng Trường T, Nguyễn Hồng S và Lê Phi T (Cán bộ canh gác) thuộc Phân Trại số 2, Trại giam Xuân Hà, Cục C10, Bộ Công an có liên quan đến trách nhiệm quản lý để người đang chấp hành án phạt tù bỏ trốn. Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành tiếp nhận, giải quyết theo thẩm quyền. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CX không thụ lý, giải quyết là có căn cứ.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Công T và Nguyễn Đắc H phạm tội “Trốn khỏi nơi giam”.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm h Khoản 1 Điều 52; tiết đầu Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Công T 26 (Hai sáu) tháng tù.

Áp dụng Khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt với thời gian chấp hành án còn lại của Bản án hình sự sơ thẩm số: 69/2023/HS-ST, ngày 17/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên tính đến ngày bỏ trốn 06/12/2023 là 16 năm 04 tháng 18 ngày. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 18 (Mười tám) năm 06 (Sáu) tháng 18 (Mười tám) ngày, thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2023.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm h Khoản 1 Điều 52; tiết đầu Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đắc H 22 (Hai hai) tháng tù.

Áp dụng Khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt với thời gian chấp hành án còn lại của Bản án hình sự sơ thẩm số: 117/2017/HS-ST, ngày 10/11/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An tính đến ngày bỏ trốn 06/12/2023 là 13 năm 05 tháng 23 ngày. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án 15 (Mười lăm) năm 03 (Ba) tháng 23 (Hai ba) ngày, thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2023.

2. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 3, Khoản 1 Điều 21, Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội. Buộc Phan Công T và Nguyễn Đắc H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trốn khỏi nơi giam số 09/2024/HS-ST

Số hiệu:09/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về