Bản án về tội trộm cắp và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 69/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 69/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP VÀ LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 154/2022/HSST-QĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 174/2022/HSST-QĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Thiện T, sinh năm 1994 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: Số 366/3A, ấp D, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần T – sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Diệu H – sinh năm 1970; có vợ Vũ Khánh L – sinh năm 1996 và 02 người con lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Tại Bản án số 75/2021/HS-ST ngày 26/5/2021, Trần Thiện T bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Tại Bản án số 21/2022/HS-ST ngày 28/02/2022, Trần Thiện T bị Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 năm 02 tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 03 năm tù.

Tổng hợp với Bản án số 75/2021/HS-ST ngày 26/5/2021, của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Buộc bị cáo Trần Thiện T phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 05 năm 06 tháng tù.

Bị cáoT hiện đang chấp hành hình 05 năm 06 tháng tù từ ngày 24/12/2020, tại Trại giam Xuân Lộc– Công an tỉnh Đồng Nai cho đến nay “có mặt”.

- Bị hại: Ông Nguyễn Đức L– sinh năm 1965, nơi cư trú: 39/2H, ấp V, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai “vắng mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Anh D – sinh năm 1989, nơi cư trú: khu phố N, phường S, thành phố L, tỉnh Đồng Nai “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 00 ngày 23/10/2020, Trần Thiện T đón xe Buýt đi từ xã Gia Tân 1, huyện Thống Nhất để đi đến chơi nhà người quen thuộc ấp Đồn Điền 1, xã Túc Trưng, huyện Đ. Do xe Buýt đi quá vị tríT cần xuống, nênT xuống xe và đi bộ qua đường quay lại xã Gia Tân 1 dọc theo Quốc lộ 20, khiT đi bộ đến ấp Hòa Bình, xã Túc Trưng, huyện Đ,T phát hiện có 01 xe mô tô biển số 86B1- 357.53 của ông Nguyễn Đức Lời đang dựng ở lề đường bên phải và có cắm chìa khóa ở ổ khóa xe. Sau khi quan sát thấy xe mô tô trên không có người trông coi và có cắm sẵn chìa khóa trên xe, nênT nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô trên,T đi lại ngồi lên xe và nổ máy xe mô tô trên rồi chạy về nhà bố mẹT ở ấp Kim Tây, xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất để cất giấu. Đến sáng ngày 24/10/2020, T điều khiển xe mô tô trên đến tiệm sửa xe “Kiệt” ở thành phố Long Khánh do anh Lê Anh Duy làm chủ, tại đâyT nói với anh Duy cần mua một chiếc xe cũ để đi làm, anh Duy đồng ý và choT xem xe mô tô biển số 60B8-839.42, trong lúc chạy thử xe mô tô biển số 60B8-839.42,T lừa anh Duy và chạy xe mô tô trên về nhà không trả lại, đồng thời để lại xe mô tô biển số 86B1-357.53T trộm cắp được trước đó ở tiệm của anh Duy, khoảng 03 ngày sauT mang xe mô tô biển số 60B8-839.42 vừa chiếm đoạn được của anh Duy đi bán cho một người không rõ nhân thân, lai lịch được 12.000.000 đồng.

Sau đó,T tiếp tục có thực hiện hành vi “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại địa bàn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai và bị bắt giữ, tại đâyT đã khai nhận hành vi trộm cắp như trên tại địa huyện Đ, nên Công an huyện Thống Nhất thông báo cho Công an huyện Đ để xử lý theo thẩm quyền đối với hành vi phạm tội củaT tại địa bàn huyện Đ.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Trần Thiện T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như trên.

Tài sản thiệt hại: 01 xe mô tô biển số 86B1-357.53.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng Hình sự của Hội đồng định giá huyện Đ ngày 07/4/2021, kết luận trị giá tài sản thiệt hại là 10.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 63/CT-VKSĐQ ngày 23 tháng 3 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Trần Thiện T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 56 Bộ luật hình sự tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm. Tổng hợp hình phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 21/2022/HS-ST ngày 28 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 03 bản án là từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Kiểm sát viên còn nêu quan điểm về biện pháp tư pháp và án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Bị cáo thống nhất về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo không có ý kiến hay tranh luận gì khác.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ để kết tội đối với bị cáo:

Căn cứ vào bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung và sự thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo và lời khai của bị hại phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ, thể hiện: Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 23/10/2020, tại ấp Hòa Bình, xã Túc Trưng, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai, Trần Thiện T đã có hành vi lén lút trộm cắp của ông Nguyễn Đức L 01 xe mô tô biển số 86B1-357.53, trị giá tài sản thiệt hại là 10.000.000 đồng. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo Trần Thiện T đã có đủ dấu hiệu về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Từ những nhận định trên, có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng số 63/CT-VKSĐQ ngày 23 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Trần Thiện T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo Trần Thiện T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử với mức án đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Thiện T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc trường hợp quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, tài sản đã thu hồi hoàn trả cho chủ sở hữu, bị cáo là lao động chính trong gia đình, có con còn nhỏ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về tổng hợp hình phạt: Bị cáo Trần Thiện T là người đang chấp hành hình phạt 05 năm 06 tháng tù về các tội “Trộm cắp tài sản” và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 75/2021/HS-ST ngày 26/5/2021, của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất và Bản án số 21/2022/HSST ngày 28/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh. Căn cứ Điều 56 Bộ luật hình sự thì bị cáoT thuộc trường hợp phải tổng hợp hình phạt của nhiều bản án nên Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt với bản án này.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, do tài sản đã được thu hồi trao trả cho ông L, ông L không yêu cầu bị cáoT phải bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[7] Về vật chứng vụ án: 01 xe mô tô biển số 86B1-357.53 quá trình điều tra xác định xe mô tô trên thuộc sở hữu của ông Nguyễn Đức L nên Cơ quan điều tra đã trao trả cho chủ sở hữu.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Đề nghị của Viện kiểm sát: Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đối với bị cáo, biện pháp tư pháp trong vụ án là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, khoản 1 và khoản 2, Điều 51, Điều 56 Bộ luật hình sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Thiện T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Thiện T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Tổng hợp với hình phạt 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về các tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 75/2021/HS-ST ngày 26/5/2021, của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai và Bản án số 21/2022/HS-ST ngày 28 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 03 bản án là 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2020.

2. Về án phí: Bị cáo Trần Thiện T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 69/2022/HS-ST

Số hiệu:69/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về