Bản án về tội trộm cắp và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 16/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 16/2021/HS-ST NGÀY 16/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP VÀ LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

 Ngày 16 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2021/TLST- HS ngày 08 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Trương Thế V; sinh ngày: 02/9/1990, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn G, xã P, huyện Ph, Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Thợ sơn xe ô tô; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 09/12; con ông Trương Thế Th và bà Bùi Thị Th; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 28/9/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 62/HS-ST ngày 11/5/2020; tiền sự: Ngày 03/10/2019 Chủ tịch UBND xã Phong Hiền đã quyết định Áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn với thời gian từ 03/10/2019 đến 03/01/2020 theo quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 03/10/2019. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/12/2020 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại:

+ Ông Nguyễn H; Trú tại: Tổ dân phố 3, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt

+ Ông Hoàng C, Trú tại: Tổ dân phố 3, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt

+ Em Lê Thị Quỳnh Nh, sinh ngày 25/9/2008;

- Đại diện hợp pháp của em Như: Ông Lê Đình C (Bố của Nh) Đều trú tại: Thôn Đ, xã Hương Vinh, thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

+ Em Nguyễn Thị Như K, sinh ngày 27/11/2008;

- Đại diện hợp pháp của em Kiều: Ông Nguyễn Xuân C (Bố của K).

Đều trú tại: Thôn Vân Cù – Nam Thanh, xã H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

+ Anh Phạm Đ, Trú tại: Số 01 P, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Võ Đại Tùng S; Trú tại: 84 N, phường Ph thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Thị Thanh Nh, Trú tại: Tổ dân phố 8, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

+ Anh Trần Quốc B, Trú tại: Thôn Đ, xã H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Thị Xuân Th, Trú tại:1/14/58 Phùng Hưng, phường Th, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Huỳnh Ngọc S, Trú tại: Thôn Th, xã Ph, huyện Ph, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

+ Anh Võ Đoàn Hồng S, Trú tại: Thôn Th, xã Ph, huyện Ph, tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 25/11/2020 Trương Thế V đi xe buýt từ bến xe phía Bắc thành phố Huế ra địa bàn phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế với mục đích tìm nhà dân sơ hở để lấy trộm tài sản. V xuống xe rồi đi bộ đến nhà ông Nguyễn H thì thấy ông H đang nấu ăn ở nhà và có một quần lửng treo trên chiếc xe đạp để ở trong nhà nên V đi vào trong nhà lấy trộm chiếc quần lửng đem ra ngoài. Khi đi đến gần ngã ba quốc lộ 1A, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế, V lục trong túi quần lấy 01 chiếc ví da bên trong có 365.000đồng, giấy hẹn sửa chữa điện thoại Vivo Y31 của cửa hàng điện thoại Gia Long và một số giấy tờ tùy thân của ông H, V lấy số tiền trên cùng giấy hẹn sữa chữa điện thoại rồi vứt chiếc quần lại. Sau đó, V đi nhờ xe của người đi đường vào lại thành phố Huế để đi chơi cùng với bàn bè và lấy số tiền trộm được tiêu sài cá nhân hết rồi đi về nhà.

Đến sáng ngày 26/11/2020, V đi xe buýt đến quán Nét ở cầu chợ Dinh, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế để chơi. Lúc này, V nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của ông H đang sữa chữa tại cửa hàng điện thoại Gia Long nên lấy giấy hẹn ở trong ví da và gọi đến cửa hàng điện thoại Gia Long nói là người quen của ông H rồi hỏi giá sữa chữa điện thoại để đến lấy. Sau đó, V nhờ hai người bạn là Huỳnh Ngọc S và Võ Đoàn Hồng S, điều khiển xe mô tô BKS 75H1-xxxxx chở V ra cửa hàng điện thoại Gia Long để lấy điện thoại. Khi đến cửa hàng điện thoại Gia Long, V trực tiếp vào gặp anh Phạm Đ là chủ cửa hàng và đưa biên lại sửa chữa cho anh Đ. V thanh toán số tiền sữa chữa hết 180.000đồng rồi lấy điện thoại di động hiệu Vivo Y31 màu trắng của ông H đi vào thành phố Huế. Sau đó, V đến cửa hàng dịch vụ cầm đồ “Hồng” của anh Võ Đại Tùng S để cầm cố chiếc điện thoại Vivo Y31 màu trắng với giá 300.000đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 61 ngày 11/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thị xã T đã kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Vivo Y31 màu trắng có giá trị 350.000đồng.

Quá trình điều tra Trương Thế V khai nhận có thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 23/11/2020 Trương Thế V đi xe buýt từ bến xe phía Bắc thành phố Huế ra đến phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế thì xuống xe vào quán ven đường để mua thuốc lá. V nhìn thấy đối diện quán có một xóm vắng người nên nảy sinh ý định đi vào trong hẻm tìm nhà sơ hở để lấy trộm tài sản. V đi bộ vào đường xóm thấy nhà ông Hoàng C đang sửa tường nhà nên đi vào hỏi xin cây đinh lăng thì ông C đồng ý. Lúc này, V phát hiện có 01 điện thoại hiệu Sam sung G355 màu trắng đang sạc pin ở giường nằm nhà trên phía bên phải. V quan sát thấy ông C đang dọn dẹp không để ý gì nên V đi vào nhà lấy chiếc điện thoại rồi đi bộ ra đường. Sau đó, V đem đến cửa hàng điện thoại di động “N” của chị Nguyễn Thị Thanh Nh bán với giá 200.000đồng Tại bản kết luận định giá tài sản số 64 ngày 21/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T đã kết luận: 01 điện thoại hiệu Sam sung G355 màu trắng có giá trị 300.000đồng.

Lần thứ 2: Vào ngày 27/11/2020, V đi đến trường THCS Đặng Vinh, thuộc xã Hương Vinh, thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế lấy trộm 01 xe đạp điện hiệu Yamaha màu đen, có giỏ nhựa màu trắng đục của em Lê Thị Quỳnh Nh, đem đến quán của Trần Quốc B bán với giá 1.000.000đồng Tại bản kết luận định giá tài sản số 66 ngày 24/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T đã kết luận: 01 xe đạp điện Yamaha màu đen có giá trị 1.000.000đồng.

Lần thứ 3: Vào khoảng 6 giờ 15 phút ngày 30/11/2020, Trương Thế V đi đến trường THCS Nguyễn Xuân Thưởng thuộc xã Hương Toàn, thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế lấy trộm 01 xe đạp điện hiệu Yamah màu đỏ đen của em Nguyễn Thị Như K đem đến quán mua bán xe đạp điện “Năm Thùy” của chị Nguyễn Thị Xuân Th bán với giá 1.000.000đồng Tại bản kết luận định giá tài sản số 65 ngày 23/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T đã kết luận: 01 xe đạp điện Yamaha màu đỏ, đen có giá trị 1.000.000đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 08/02/2021 Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố bị cáo Trương Thế V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, r, s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Trương Thế V phạm tội Trộm cắp tài sản và xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 174; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; tuyên bố bị cáo Trương Thế V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt chung của hai tội. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước chiếc điện thoại.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Trương Thế V trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; lời khai của bị hại và những người tham gia tố tụng khác; bản kết luận về việc định giá tài sản cùng các tài liệu chứng cứ khác của vụ án; có đủ căn cứ kết luận:

- Về hành vi trộm cắp tài sản:

Ngày 23/11/2020, tại nhà ông Hoàng C ở Tổ dân phố 3, phường T, thị xã H, Trương Thế V lén lút đột nhập vào nhà lấy trộm 01 điện thoại di động Sam sung G355 màu trắng của ông Hoàng C có giá trị 300.000đồng.

Ngày 25/11/2020, tại nhà ông Nguyễn H ở Tổ dân phố 3, phường T, thị xã H, V lén lút đột nhập vào nhà lấy trộm chiếc quần lửng của ông H. Lục trong túi quần có 01 chiếc ví da bên trong có 365.000đồng, giấy hẹn sửa chữa điện thoại Vivo Y31 của cửa hàng điện thoại Gia Long và một số giấy tờ tùy thân của ông H.

Ngày 27/11/2020 tại trường THCS Đặng Vinh, thuộc xã Hương Vinh, thị xã T, V đột nhập vào nhà xe của trường lấy trộm 01 xe đạp điện hiệu Yamaha màu đen, có giỏ nhựa màu trắng đục, có giá trị 1.000.000đồng của em Lê Thị Quỳnh Nh.

Ngày 30/11/2020, tại trường THCS Nguyễn Xuân Thưởng thuộc xã Hương Toàn, thị xã T, tỉnh Thừa Thiên Huế, V đột nhập vào nhà xe của trường lấy trộm 01 xe đạp điện hiệu Yamah màu đỏ đen có giá trị 1.000.000đồng của em Nguyễn Thị Như K.

Tổng giá trị tài sản mà V chiếm đoạt là 2.665.000 đồng.

- Về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Vào ngày 26/11/2020 Trương Thế V dùng thủ đoạn gian dối sử dụng giấy hẹn sửa chữa điện thoại của người khác, nói dối là người quen để chiếm đoạt 01 điện thoại hiệu Vivo Y31 màu trắng có giá trị 350.000đồng của ông Phạm Đ là chủ cửa hàng điện thoại Gia Long.

[3] Ngày 11/5/2020 bị cáo V bị Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế kết án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nay còn vi phạm ( Bản án số 62/2020/HS-ST ngày 11/05/2020) nên có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Trương Thế V đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

[4] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thị xã T.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy rằng: Bị cáo phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 2 lần trở lên, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản; Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; người phạm tội tự thú và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (chỉ đối với tội trộm cắp tài sản); phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về biện pháp chấp hành hình phạt: Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà còn tiếp tục nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội. Do dó cần có mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục va phòng ngừa chung.

[7] Về dân sự: Không có ai yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không phải giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Các vật chứng thu giữ gồm:

+ 01 xe ô tô BKS 75H1-xxxxx của chị Lê Thị Hồng N;

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y31 màu trắng, số IMEI 1:869525027512439, IMEI 2: 869525027512421 của ông Nguyễn H và sim có số thuê bao: 037838xxxx;

+ 01 quần lửng bằng vài màu trắng của ông Nguyễn H;

+ 01 ví da màu đen có ghi chữ VNPT Viễn thông Thừa Thiên Huế của ông Nguyễn H;

+ 01 Giấy CMND, 01 thẻ bảo hiểm y tế; 01 thẻ hội viên hội người cao tuổi Việt Nam mang tên Nguyễn H;

+ 01 Giấy đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn Dương, biển số đăng ký: 59VA- xxxxx;

+ 01 thẻ ATM Ngân hàng Agribank mang tên H;

+ 01 thẻ ATM Ngân hàng Agribank mang tên TH;

+ 01 xe đạp điện Yamaha màu đen, giỏ nhựa màu trắng đục của Lê Thị Quỳnh Nh;

+ 01 xe đạp điện Yamaha màu đỏ đen của Nguyễn Thị Như K.

Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã T đã trả lại cho các chủ sở hữu và không ai có kH nại gì.

- Vật chứng hiện còn tạm giữ:

+ 01 điện thoại di động bàn phím nhãn hiệu Masstel màu đỏ đen số IMEI: 358414106367593 của Trương Thế V, đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo V phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 174; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Trương Thế V phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Trương Thế V 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ Điều 55 Bộ luật Hình sự: Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 05/12/2020.

- Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên xử:

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động bàn phím nhãn hiệu Masstel màu đỏ đen số IMEI: 358414106367593 của Trương Thế V. Vật chứng này hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/02/2021.

- Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án: Buộc bị cáo Trương Thế V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp và lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 16/2021/HS-ST

Số hiệu:16/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hương Trà - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về