TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 89/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2023/TLST-HSST ngày 12 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023; đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Quí H, tên gọi khác: không, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2000, tại thành phố H, tỉnh Hải Dương. Nơi thường trú: số 12D Đền M, phường P, thành phố H, tỉnh Hải Dương; chỗ ở: khu C, phường H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Quí H1 và bà Vũ Thị P; vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 04/01/2019 bị Công an Phường T, thành phố M, xử phạt hành chính về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với số tiền 1.500.000 đồng, bị cáo đã chấp hành xong quyết định.
Bị cáo đầu thú ngày 02/8/2023, bị tạm giữ đến ngày 11/8/2023, được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: ông Trần Văn H2, sinh năm 1987, cư trú tại thôn I, xã H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt Những người làm chứng: bà Vũ Thị P, ông Bùi Quí H1. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có phương tiện để đi lại, Bùi Quí H đà nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô để làm phương tiện đi lại. Khoảng 17 giờ ngày 07/7/2023, H đến khu vực phía trước cửa hàng sửa chữa xe máy “H”, số nhà D đường T thuộc thôn I, xã H, thành phố M do anh Trần Văn H2 làm chủ, thì phát hiện thấy anh H2 có dựng một số chiếc xe mô tô vẫn cắm chìa khóa ở ổ khóa điện, không có người trông coi. H đi đến vị trí một chiếc xe mô tô dựng sát tường của cửa hàng, ngồi lên yên xe, dùng tay vặn mở khóa điện, ấn nút khởi động để nổ máy xe, nhưng xe hỏng, không nổ máy được. Thấy vậy H tiếp tục đi đến vị trí chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu trắng-xám-bạc biển số 14H8-83xx dựng ở sát mép đường, ngồi lên xe, dùng tay vặn mở khóa điện, ấn nút khởi động, nổ máy xe và nhanh chóng điều khiển xe mô tô lấy được đi về nhà của mình ở khu C, phường H, thành phố M cất giấu. Sau đó, H tiếp tục điều khiển xe mô tô trộm cắp đến nhà của ông Bùi Quí H1 (là bố đẻ của H) ở khu H, phường H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh rồi dùng 01 lọ sơn xịt màu đen sơn lại vỏ xe từ màu trắng-xám-bạc thành màu đen, rồi điều khiển xe đi về nhà ở khu C, phường H, thành phố M và làm phương tiện đi lại.
Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển số 14H8-83xx, do bà Vũ Thị P (là mẹ đẻ của H), giao nộp và trả lại cho ông Trần Văn H2.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 589/KL-ĐGTS ngày 01/8/2023, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự thành phố M, kết luận: giá trị của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, số máy: 5C64-2377xx, số khung: C640AY2377xx, BKS 14H8-83xx, có trị giá là 8.000.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 86/CT-VKSMC ngày 12 tháng 9 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái truy tố bị cáo Bùi Quí H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo có lời khai phù hợp với nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát.
Người bị hại ông Trần Văn H2 vắng mặt tại phiên tòa có lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo về thời gian, địa điểm và đặc điểm chiếc xe mà bị cáo trộm cắp, bị hại đã nhận lại xe từ Cơ quan điều tra và không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Những người làm chứng bà Vũ Thị P và ông Bùi Quí H1 có lời khai xác nhận: sau khi Q trộm cắp xe mô tô và đem về nhà cất dấu, sau khi bị phát hiện Q đã đem xe về nhà và bà P mang xe nộp lại cho cơ quan Công an.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản cáo trạng về tội danh và khung hình phạt đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo Bùi Q1 từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về phần dân sự: người bị hại đã nhận được lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thêm nên không xét.
Bị cáo không tranh luận gì với nội dung của bản luận tội và thừa nhận việc truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội và trình bày lời nói sau cùng: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ quá trình tranh tụng, các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố M, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái; Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng [2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, những người làm chứng, vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử kết luận: khoảng 17 giờ ngày 07/7/2023, tại khu vực phía trước nhà số D, đường T thuộc thôn I, xã H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, bị cáo Bùi Quí H đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 14H8-83xx trị giá 8.000.000đ (tám triệu đồng) của anh Trần Văn H2.
[3] Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản, một trong các quyền được nhà nước công nhận và bảo vệ. Bị cáo là người trưởng thành, nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã có đủ các yếu tố cấu thành của tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[4] Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo có nhân thân xấu năm 2019 bị cáo đã bị Công an phường T xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi trái pháp luật. Do vậy cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục răn đe bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tự nguyện đầu thú nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về hình phạt bổ sung là hình phạt tiền: xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo
[7] Về phần dân sự: người bị hại đã nhận được tài sản và không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gì thêm nên không xét.
[8] Đối với bà P và ông H1 không biết chiếc xe mô tô do bị cáo đem về nhà cất dấu là tài sản trộm cắp mà có nên không xét.
[9] Về vật chứng: chiếc xe máy mà bị cáo trộm cắp Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu theo quy định của pháp luật nên không xét.
[10] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự và dân sự theo quy định.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo: Bùi Quí H phạm tội: “trộm cắp tài sản”
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo: Bùi Quí H: 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù, được trừ đi những ngày bị cáo bị tạm giữ (ngày 02/8/2023 đến ngày 11/8/2023).
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Áp dụng: khoản 1 Điều 331, khoản 1, 3 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án nơi cư trú.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius) số 89/2023/HS-ST
Số hiệu: | 89/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về