Bản án về tội trộm cắp tài sản (xe mô tô hiệu SH 150i) số 04/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 10/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 10 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 171/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2023/QĐXXST–HS ngày 25 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

HUỲNH ĐỨC K, tên gọi khác: Không, sinh ngày 21/10/1984 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi thường trú: Tổ 01, phường Hoà K, quận Thanh K, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Huỳnh Đức Đ (chết) và bà Võ Thị Q (sinh năm 1953). Vợ Trần Thị Thuỳ A đã ly hôn, có 01 con sinh năm 2004.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo hiện đang tạm giam từ ngày 19/9/2023 tại nhà tạm giữ Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Phan Thị Kiều S. Sinh năm 1973. Trú tại: Tổ , phường Thanh KT, quận Thanh K, thành phố Đà Nẵng, Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Đức K có mối quan hệ bạn bè quen biết với chị Phan Thị Kiều S. Khoảng 22h30 ngày 17/10/2018 K nhậu tại quán Hoàng Yến tại 549 Nguyễn Tất T, Đà Nẵng thì gặp chị S đang nhậu cùng với nhiều người bạn khác ở bàn bên cạnh. K qua bàn mời bia chị S, trên bàn lúc này có để chìa khoá xe mô tô hiệu SH 150i màu trắng-đen biển số 43D1-294.xx. Sau đó thấy chị S đi vệ sinh, lợi dụng lúc chị S không quản lý được tài sản K lén lấy chìa khoá xe rồi ra bãi xe lấy xe mô tô biển kiểm soát 43D1-294.xx trên đi về. Chị S vào lại bàn thì phát hiện mất chìa khoá xe và xe, chị S nghe bạn nói K đã lấy xe bỏ đi nên nhờ bạn dùng xe máy chở đến nhà K thì thấy xe máy của mình để trước nhà K tại số 485 Hải Phòng, Đà Nẵng. Lúc này chị S thấy K mở cốp xe lấy một ví da trong đó có nhiều tài sản khác của chị S bỏ vào người nên yêu cầu K đưa lại tài sản trong ví và chìa khoá xe nhưng K không đưa mà bỏ trốn vào đường kiệt gần đó, K vứt chìa khoá xuống đường không rõ vị trí cụ thể. Sau khi thấy trong ví chị S có thẻ ATM do biết được mật khẩu thẻ nên K đến cây ATM của Ngân hàng Quận đội trên đường Nguyễn Hữu Thọ thành phố Đà Nẵng rút lấy số tiền 9.000.000 đồng trong tài khoản của chị S rồi về nhà bà con ở phường Hoà Quý ngủ nhờ. Tại đây K mở ví tiếp tục kiểm tra thì thấy có các tài khoản khác của chị S là số tiền 6.000.000 đồng; 300 USD;

500 Yên; 09 nhẫn vàng Tây; 01 dây chuyền và mặt dây chuyền vàng Tây; 01 nhẫn vàng 9999, trọng lượng 05 chỉ. Số tiền 15.000.000 đồng trộm cắp được K dùng tiêu xài cá nhân hết. Riêng tiền ngoại tệ, vàng của chị S thì sau đó K đem lên nhà trả lại. Sau đó K bỏ trốn nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Cẩm Lệ đầu thú về hành vi phạm tội như trên.

Tang tài vật thu giữ:

- Tạm giữ của chị Phan Thị Kiều S 01 xe mô tô Honda SH 150i màu trắng đen BKS 43D1-294.xx , số khung 022354, số máy 0022393. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại chi chị Đoàn Thục Uyên theo giấy uỷ quyền quản lý tài sản của chị Phan Thị Kiều S.

Kết luận định giá tài sản ngày 01/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận Thanh Khê xác định: xe mô tô Honda SH 150i màu trắng đen BKS 43D1 -294.86 trị giá: 61.000.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản ngày 14/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận Thanh Khê xác định giá trị của 300USD; 500Yên; 09 nhẫn vàng Tây; 01 dây chuyền và mặt dây chuyền vàng Tây; 01 nhẫn vàng 9999 trọng lượng 05 chỉ. Có tổng giá trị 77.114.860 đồng.

Trách nhiệm dân sự: Huỳnh Đức K đã tự nguyện khắc phục toàn bộ cho chị S.

Chị S đã nhận lại nguyên vẹn và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Bản cáo trạng số 176/CT-VKSĐN-P2 ngày 28/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Huỳnh Đức K về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa hôm nay giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Đức K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Huỳnh Đức K mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Đức K cũng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, rất ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên, Viện kiểm sát thành phố phố Đà Nẵng, Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Huỳnh Đức K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 17/10/2018 tại quán Hoàng Yến địa chỉ 549 Nguyễn Tất Thành, phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Huỳnh Đức K đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô Honda SH 150i màu trắng đen BKS 43D1-294.xx, số khung 022354, số máy 0022393; 300USD; 500Yên; 09 nhẫn vàng Tây; 01 dây chuyền và mặt dây chuyền vàng Tây; 01 nhẫn vàng 9999, trọng lượng 05 chỉ. Tổng giá trị tài sản mà Huỳnh Đức K đã chiếm đoạt 153.114.860 đồng.

Hành vi của bị cáo Huỳnh Đức K đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật đều bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Bị cáo K và chị S có quan hệ tình cảm với nhau, ngày 17/10/2018 thấy đã khuya rồi mà chị S vẫn còn ngồi uống bia với các bạn nên K bảo chị S đi về nhưng chị S không nghe nên trong lúc bực tức, bộc phát nhất thời khi chị S đi vệ sinh thì bị cáo K phát hiện chìa khoá xe chị S để trên bàn nên lấy chìa khoá xe và ra bãi xe lấy xe chị S bỏ đi. Khi chị S phát hiện chạy đi tìm thì phát hiện K đang đứng trước nhà tại 458 Hải phòng, Đà Nẵng cùng xe máy và đang mở cốp lấy ví tiền chạy đi vào trong kiệt còn xe máy vẫn để trước nhà. Khoảng 5 ngày sau thì bị cáo trả lại toàn bộ tài sản cho chị S. Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất lòng tin trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

[4] Xét về những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Không có - Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo đã ra đầu thú, bị cáo có nhân thân tốt, người bị hại đã nhận lại số tiền khắc phục hậu quả và người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 nên cũng cần xem xét cho bị cáo mức hình phạt phù hợp khi lượng hình để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật nên áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo cũng hoàn toàn thoả đáng.

[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo, HĐXX xét thấy phù hợp nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[6] Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng về tội danh và áp dụng các điều luật là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

[8] Án phí HSST: Bị cáo Huỳnh Đức K phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Đức K phạm tội "Trộm cắp tài sản".

1. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Đức K: 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam ngày 19/9/2023.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Huỳnh Đức K phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

3. Án xử công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (xe mô tô hiệu SH 150i) số 04/2024/HS-ST

Số hiệu:04/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về