Bản án về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 42/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 18 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Y Em C Niê; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 14 tháng 02 năm 1993 tại tỉnh: Đắk Lắk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số X đường Y, tổ dân phố Y, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay: Buôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Ê Đê; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Y T H Đơk và bà H B Niê; bị cáo có vợ là Mai Thị D Niê và chưa có con.

Tiền án: không; tiền sự: không. Nhân thân:

- Ngày 16 tháng 11 năm 2010, bị Công an phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo đã chấp hành xong.

- Ngày 27 tháng 12 năm 2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 350/2011/HS-ST, ngày 14/5/2012 chấp hành xong hình phạt. Bị cáo đã được xóa án tích.

- Ngày 20 tháng 05 năm 2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 148/2015/HS-ST, ngày 02/9/2016 chấp hành xong hình phạt. Bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2021 đến ngày 07/01/2022 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh cho đến nay.

Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Mai Thị D Niê; tên gọi khác: Không; Sinh ngày 30 tháng 11 năm 1996 tại tỉnh: Đắk Lắk; Nơi cư trú: Buôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Ê Đê; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn M và bà H W Niê; bị cáo có chồng là Y Em C Niê và có 01 con sinh năm 2013.

Tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 12/12/2021 cho đến nay.

Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Chị Trình Công Huyền V, sinh năm 1988 (Vắng mặt). Địa chỉ: Buôn T, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1988 (Vắng mặt). Địa chỉ: Buôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Mai Văn M, sinh năm 1968 (Có mặt).

Địa chỉ: Buôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 7/2021 đến tháng 10/2021 trên địa bàn thuộc xã E, thành phố B, Y Em C Niê đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản, sau đó Mai Thị D Niê biết rõ các tài sản do Y Em C Niê trộm cắp mà có nhưng vẫn tiêu thụ sử dụng, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 22 giờ ngày 26 tháng 7 năm 2021, Y Em C Niê đi bộ trên các tuyến đường thuộc xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk tìm tài sản để trộm cắp. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Y Em C Niê đi đến nhà của chị Trình Công Huyền V thấy cửa chính căn nhà đóng còn cửa sổ bên trái (từ ngoài nhìn vào) có song cửa bằng kim loại đang mở. Y Em C Niê trèo qua tường rào vào trong khuôn viên nhà chị V, đi đến cửa sổ đang mở thì quan sát thấy trên bàn sát cửa sổ có để 01 chiếc máy tính xách tay (Laptop), nhãn hiệu Masstel, model: Notebook L133, màu bạc, đã qua sử dụng đang cắm sạc pin thì Y Em C Niê lén lút lấy chiếc máy tính xách tay rồi trèo ra ngoài tẩu thoát. Sau khi trộm cắp được chiếc máy tính xách tay của chị V thì Y Em C Niê mang chiếc máy tính xách tay trộm cắp được về nhà đưa cho vợ là Mai Thị D Niê và nói chiếc máy tính xách tay là do trộm cắp mà có. Mai Thị D Niê biết rõ chiếc máy tính xách tay là do Y Em C Niê trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý tiêu thụ sử dụng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 227/KL-HĐĐGTS ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: Chiếc máy tính xách tay (Laptop), nhãn hiệu Masstel, model: Notebook L 133, màu bạc, đã qua sử dụng, trị giá: 2.700.000 đồng (Hai triệu bảy trăm nghìn đồng).

Vụ thứ hai: Khoảng 19 giờ ngày 08 tháng 10 năm 2021, Y Em C Niê đi bộ đến tiệm tạp hóa L 68 do anh Nguyễn Văn V làm chủ, địa chỉ: Tổ X, Buôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Quan sát thấy không có người trông coi quản lý, Y Em C Niê đi đến trước cửa tiệm nơi trưng bày hàng hóa lén lút trộm cắp 04 thùng bia Tiger, màu xanh (loại 24lon/thùng) chưa qua sử dụng mang ra ngoài để bên hông cửa tiệm. Sau đó, Y Em C Niê tiếp tục đi vào trong tiệm tạp hóa đến quầy thu ngân, mở tủ lén lút trộm cắp các tài sản gồm: Số tiền 500.000 đồng và 130 card điện thoại các loại gồm: 04 card điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng/card; 04 card điện thoại Mobifone mệnh giá 100.000 đồng/card; 05 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 100.000 đồng/card; 22 card điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 50.000 đồng/card; 07 card điện thoại Mobifone mệnh giá 50.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng/card; 19 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng/card; 01 card điện thoại Vietnamobile mệnh giá 20.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 10.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 10.000 đồng/card; đều chưa qua sử dụng cất giấu vào túi áo khoác vải, màu nâu rồi đi ra ngoài bưng theo 04 thùng bia trộm cắp nêu trên mang về nhà đưa cho vợ là Mai Thị D Niê. Tại đây, Y Em C Niê nói cho Mai Thị D Niê biết số tiền 500.000 đồng, 04 thùng bia Tiger và 130 card điện thoại các loại là do trộm cắp mà có. Mai Thị D Niê biết rõ các tài sản gồm: Số tiền 500.000 đồng, 04 thùng bia Tiger và 130 card điện thoại các loại là do Y Em C Niê trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý tiêu thụ sử dụng. Đến ngày 09 tháng 10 năm 2021, Y Em C Niê đã tiêu thụ sử dụng hết 01 thùng bia Tiger trộm cắp nêu trên còn Mai Thị D Niê đã tiêu thụ sử dụng hết 10 card điện thoại các loại gồm: 03 card điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng/card; 02 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 100.000 đồng/card; 02 card điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng/card; 02 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng/card;

01 card điện thoại Vietnamobile mệnh giá 20.000 đồng/card và tiêu xài cá nhân hết số tiền 500.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 227/KL-HĐĐGTS ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: 04 thùng bia Tiger, màu xanh (loại 24lon/thùng); 04 card điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng/card; 04 card điện thoại Mobifone mệnh giá 100.000 đồng/card; 05 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 100.000 đồng/card; 22 card điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 50.000 đồng/card; 07 card điện thoại Mobifone mệnh giá 50.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng/card; 19 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng/card; 01 card điện thoại Vietnamobile mệnh giá 20.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 10.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 10.000 đồng/card; tất cả đều chưa qua sử dụng. Tổng trị giá tài sản là 6.050.000 đồng (Sáu triệu không trăm năm mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 55/CT-VKS-HS ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Y Em C Niê về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, truy tố bị cáo Mai Thị D Niê về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng, đồng thời phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm của các bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Y Em C Niê phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Mai Thị D Niê phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Về hình phạt:

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Y Em C Niê từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 323; Điểm b, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 36 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Mai Thị D Niê từ 18 tháng đến 24 tháng Cải tạo không giam giữ.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trả lại cho chị Trình Công Huyền V là chủ sở hữu hợp pháp 01 chiếc máy tính xách tay (Laptop), nhãn hiệu Masstel, model: Notebook L133, màu bạc, đã qua sử dụng.

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trả lại cho anh Nguyễn Văn V là chủ sở hữu hợp pháp: 03 thùng bia Tiger, màu xanh (24lon/thùng); 01 card điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng/card; 04 card điện thoại Mobifone mệnh giá 100.000 đồng/card;

03 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 100.000 đồng/card; 20 card điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 50.000 đồng/card; 07 card điện thoại Mobifone mệnh giá 50.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng/card; 17 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 10.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 10.000 đồng/card, đều chưa qua sử dụng.

Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc áo khoác vải, màu nâu, đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo Y Em C Niê.

Trả lại cho bị cáo Mai Thị D Niê là chủ sở hữu hợp pháp: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi 9A, màu xanh, số Imei: 869511057156XXX, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 46, Điều 48 của Bộ luật Hình sự;

Chấp nhận việc bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê đã bồi thường số tiền 1.490.000 đồng cho anh Nguyễn Văn V. Anh Nguyễn Văn V đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê phải bồi thường chi phí nào khác.

Chấp nhận việc chị Trình Công Huyền V và anh Nguyễn Văn V không yêu cầu các bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê phải bồi thường chi phí nào khác.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản Cáo trạng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường tài sản của người khác, muốn có tiền bằng con đường bất chính nên: Vào khoảng 23 giờ ngày 26 tháng 7 năm 2021, tại Buôn T, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Y Em C Niê đã trộm cắp của chị Trình Công Huyền V 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu Mastel, model: Notebook L113, màu bạc, đã qua sử dụng, trị giá là 2.700.000 đồng. Mai Thị D Niê biết rõ chiếc máy tính xách tay là tài sản do Y Em C Niê trộm cắp mà có nhưng vẫn tiêu thụ sử dụng. Vào khoảng 19 giờ ngày 08 tháng 10 năm 2021, tại tiệm tạp hóa L 68 địa chỉ: Tổ X, Buôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Y Em C Niê đã trộm cắp của anh Nguyễn Văn V các tài sản gồm: số tiền 500.000 đồng, 04 thùng bia Tiger, màu xanh và 130 card điện thoại các loại mệnh giá từ 10.000 đồng đến 100.000 đồng. Tổng trị giá các tài sản Y Em C Niê trộm cắp là 6.550.000 đồng. Mai Thị D Niê biết rõ số tiền 500.000 đồng, 04 thùng bia Tiger, màu xanh và 130 card điện thoại các loại là tài sản do Y Em C Niê trộm cắp mà có nhưng vẫn tiêu thụ sử dụng. Tổng trị giá tài sản Y Em C Niê trộm cắp, Mai Thị D Niê tiêu thụ là 9.250.000 đồng (Chín triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Y Em C Niê đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo Mai Thị D Niê đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Điều 173 Bộ Luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

Điều 323 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

Xét tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo Y Em C Niê xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo Mai Thị D Niê xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được rằng tài sản của người khác là bất khả xâm phạm, mọi hành vi xâm phạm, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị pháp luật nghiêm cấm. Tuy nhiên, do ý thức coi thường pháp luật, vì động cơ vụ lợi, muốn có tiền bằng con đường bất chính, các bị cáo cố tình thực hiện hành vi phạm tội, do đó các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do lỗi cố ý gây ra.

[3] Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Y Em C Niê về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Mai Thị D Niê về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo Mai Thị D Niê có nhân thân tốt. Bị cáo Y Em C Niê có nhân thân xấu: Ngày 16 tháng 11 năm 2010, bị Công an phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 27 tháng 12 năm 2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tại bản án số 350/2011/HS-ST. Ngày 20 tháng 05 năm 2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tại bản án số 148/2015/HS-ST.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Y Em C Niê, Mai Thị D Niê phạm tội nhiều lần nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Y Em C Niê tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Mai Thị D Niê tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại; là phụ nữ có thai, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê đều là người dân tộc thiểu số nên các bị cáo còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt, thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Y Em C Niê, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Đối với bị cáo Mai Thị D Niê: Bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, là phụ nữ có thai, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt Cải tạo không giam giữ theo quy định tại Điều 36 của Bộ luật Hình sự. Việc áp dụng hình phạt Cải tạo không giam giữ đối với bị cáo sẽ có tác dụng cải tạo, giáo dục hơn chấp hành hình phạt tù, tạo điều kiện để bị cáo tự cải tạo, giáo dục tại cộng đồng, thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật mà vẫn có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm chung. Do bị cáo có nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp nên miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng cho bị cáo.

[5] Đối với ông Mai Văn M (cha của bị cáo Mai Thị D Niê) là chủ sở hữu và quản lý căn nhà địa chỉ Buôn C, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Ông Mai Văn M không biết việc bị cáo Y Em C Niê trộm cắp các tài sản mang về nhà để cho bị cáo Mai Thị D Niê tiêu thụ sử dụng. Do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý đối với ông Mai Văn M cũng như căn nhà là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với: 01 chiếc máy tính xách tay (Laptop), nhãn hiệu Masstel, model: Notebook L 133, màu bạc, đã qua sử dụng là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị Trình Công Huyền V. Ngày 11/01/2022 Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại tài sản trên cho chị Trình Công Huyền V là chủ sở hữu hợp pháp nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

Đối với: 03 thùng bia Tiger, màu xanh (loại 24lon/thùng); 01 card điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng/card; 04 card điện thoại Mobifone mệnh giá 100.000 đồng/card; 03 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 100.000 đồng/card; 20 card điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 50.000 đồng/card; 07 card điện thoại Mobifone mệnh giá 50.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng/card; 17 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 10.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 10.000 đồng/card, đều chưa qua sử dụng, là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh Nguyễn Văn V. Ngày 11 tháng 01 năm 2022 Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại các tài sản trên cho anh Nguyễn Văn V là chủ sở hữu hợp pháp nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.

Đối với: 01 chiếc áo khoác vải, màu nâu, đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo Y Em C Niê, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

Đối với: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi 9A, màu xanh, số Imei: 869511057156XXX, tạm giữ của bị cáo Mai Thị D Niê. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo Mai Thị D Niê và không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Mai Thị D Niê là chủ sở hữu hợp pháp nhận quản lý, sử dụng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án là phù hợp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 46, Điều 48 của Bộ luật Hình sự;

Chấp nhận việc bị cáo Y Em C Niê và bị cáo Mai Thị D Niê đã tự nguyện bồi thường số tiền 1.490.000 đồng (Một triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng) cho anh Nguyễn Văn V. Anh Nguyễn Văn V đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê phải bồi thường chi phí nào khác là tự nguyện nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

Chấp nhận việc sau khi nhận lại tài sản chị Trình Công Huyền V và anh Nguyễn Văn V không yêu cầu các bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê phải bồi thường chi phí nào khác là tự nguyện nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Y Em C Niê phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Y Em C Niê 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian bắt, tạm giam từ ngày 17/12/2021 đến ngày 07/01/2022.

- Căn cứ khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Mai Thị D Niê phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”;

Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm b, n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 36 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Mai Thị D Niê 18 (Mười tám) tháng Cải tạo không giam giữ.

Thời điểm tính chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo Mai Thị D Niê tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng đối với bị cáo Mai Thị D Niê.

Giao bị cáo Mai Thị D Niê cho Ủy ban nhân dân xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trả lại cho chị Trình Công Huyền V là chủ sở hữu hợp pháp 01 (Một) chiếc máy tính xách tay (Laptop), nhãn hiệu Masstel, model: Notebook L133, màu bạc, đã qua sử dụng.

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trả lại cho anh Nguyễn Văn V là chủ sở hữu hợp pháp: 03 thùng bia Tiger, màu xanh (24lon/thùng); 01 card điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng/card; 04 card điện thoại Mobifone mệnh giá 100.000 đồng/card;

03 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 100.000 đồng/card; 20 card điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 50.000 đồng/card; 07 card điện thoại Mobifone mệnh giá 50.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng/card; 17 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng/card; 16 card điện thoại Vinaphone mệnh giá 10.000 đồng/card; 18 card điện thoại Viettel mệnh giá 10.000 đồng/card, đều chưa qua sử dụng.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) chiếc áo khoác vải, màu nâu, đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo Y Em C Niê.

Trả lại cho bị cáo Mai Thị D Niê là chủ sở hữu hợp pháp: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi 9A, màu xanh, số Imei: 869511057156XXX, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

(Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/02/2022 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk với Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk).

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 46, Điều 48 của Bộ luật Hình sự;

Chấp nhận việc bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê đã tự nguyện bồi thường số tiền 1.490.000 đồng (Một triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng) cho anh Nguyễn Văn V. Anh Nguyễn Văn V đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê phải bồi thường chi phí nào khác.

Chấp nhận việc chị Trình Công Huyền V và anh Nguyễn Văn V không yêu cầu các bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê phải bồi thường chi phí nào khác.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Các bị cáo Y Em C Niê và Mai Thị D Niê, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về