Bản án về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 378/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 378/2021/HS-PT NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 380/2021/TLPT-HS ngày 05/7/2021 đối với bị cáo Lưu Văn Đ và đồng phạm về tội “Trộm cắp tài sản” “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 42/2021/HSST ngày 28/05/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Lưu Văn Đ (tên gọi khác: Đ tám ngón): Sinh năm 1987 tại tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 3/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Lưu Văn X (đã chết) và bà Trương Thị X; Bị cáo chung sống với chị Lê Thị Quỳnh T như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn và có 01 con sinh năm 2017.

Tiền án: 01 tiền án: Tại Bản án số: 75/2012/HSST ngày 28/8/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (ngày 12/4/2015 chấp hành xong hình phạt tù, tuy nhiên, đến nay bị cáo chưa chấp hành phần bồi thường về dân sự nên chưa được xóa án tích). Tiền sự: không. N thân: Tại Bản án số: 26/2010/HSST ngày 27/4/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xoá án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/10/2019 đến nay; có mặt.

2. Họ và tên: Đặng Quang T (tên gọi khác: T Mọi); Sinh năm 1987 tại tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Đặng Văn T và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Thảo A và có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân:

- Ngày 08/10/2003, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng ra Quyết định số 1022/UB đưa vào Trường giáo dưỡng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Tại Bản án số: 28/2009/HSPT ngày 24/3/2009, bị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (đã được xóa án tích).

- Tại Bản án số: 47/2012/HSST ngày 31/08/2012, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2020 đến nay; có mặt.

3. Họ và tên: Nguyễn Văn L (Tên gọi khác: B, N); Sinh năm 1982 tại tỉnh Lâm Đồng; Nơi đăng ký HKTT: tỉnh Lâm Đồng; Chỗ ở: Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Con ông: Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị N (đều đã chết) (cha nuôi là Nguyễn Văn H, mẹ nuôi là Nguyễn Thị L); Bị cáo có vợ là Trác Diệp Hồng N và có 01 con sinh năm 2015.

Tiền án: có 01 tiền án, tại Bản án số: 39/2009/HSST ngày 07/4/2009, bị Tòa án thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt ngày 31/10/2012 nhưng đến nay chưa chấp hành xong phần bồi thường dân sự và tiền án phí dân sự sơ thẩm nên chưa được xóa án tích). Tiền sự: không. N thân: Tại Bản án số 58/HSST ngày 19/12/2000, bị Tòa án nhân dân thị xã B Lộc xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản công dân” (đã được xóa án tích). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/10/2019 đến nay; có mặt.

- Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Lưu Văn Đ: Luật sư Nguyễn Trung S, thuộc Công ty luật TNHH MTV G, Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

Địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk.

Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo khác, những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 01/2019 đến tháng 10/2019, các bị cáo Lưu Văn Đ, Phan D K, Đặng Thế T, Đặng Thế Anh s, Đặng Quang T cùng một số đối tượng chưa rõ lai lịch đã thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, có sự phân công vai trò cụ thể, có bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, thực hiện việc trộm cắp làm nguồn thu nhập, nguồn sống chính, có bị cáo chưa được xóa án tích về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng vẫn tiếp tục phạm tội, thực hiện nhiều vụ trộm cắp xe mô tô trên các địa bàn thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng và thành phố P, tỉnh Gia Lai. Trong tất cả các lần đi trộm cắp xe mô tô, Đ là người chủ động lên kế hoạch phân công nhiệm vụ và chuẩn bị các công cụ phương tiện như vam phá khóa, thiết bị phá sóng, dao, bình xịt hơi cay.... Đ cũng là người trực tiếp dùng vam phá khóa để trộm xe, các đối tượng còn lại có nhiệm vụ cảnh giới và điều khiển xe trộm cắp đi cất giấu rồi sau đó mang đi tiêu thụ. Cụ thể như sau:

Lưu Văn Đ cùng đồng bọn đã thực hiện 12 vụ trộm cắp xe mô tô tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk như sau:

+ Vụ thứ nhất: Chiều ngày 20/1/2019, bị cáo Phan D K điều khiển xe mô tô hiệu Honda, màu sơn đen, loại xe Wave (chưa xác định được biển số) của Bùi Minh T (sinh năm 1990, trú tại thôn 4, xã Lộc Ngãi, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng) chở T, còn Đặng Thế Anh S điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại xe Exciter của K (chưa xác định được biển số) chở Lưu Văn Đ đi từ thành phố B Lộc đến thành phố B tìm xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH để trộm cắp. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, khi cả bọn đi ngang qua nhà số 01, P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì thấy có 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda loại xe SH màu đen, biển số 47U1 - 054.55 của anh Lưu Ngọc T (sinh năm 1996, trú tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) để trên vỉa hè và không có người trông coi nên cả bọn thống nhất trộm chiếc xe này. S, K và T đứng cảnh giới, còn Đ đi lại dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi cả bọn tẩu thoát đi về tỉnh Lâm Đồng. Sau đó, S điều khiển chiếc xe mô tô lấy trộm được này đến thành phố Hồ Chí Minh bán cho một người (chưa xác định được lai lịch) với giá 30.000.000 đồng rồi chia cho cả bọn để tiêu xài cá nhân.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô hiệu Honda loại xe SH biển số 47U1 - 054.55 trị giá 110.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô hiệu Honda loại xe SH màu đen, biển số 47U1 - 054.55 không thu hồi được.

+ Vụ thứ hai: Vào khoảng 18 giờ ngày 26/01/2019, K điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại xe Wave, màu đen (chưa xác định được biển số) của Bùi Minh T chở T, còn s điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại xe Exciter (chưa xác định được biển số) chở Đ đi tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi đi ngang qua nhà số 62, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, thì cả bọn thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH màu trắng có biển số 47B1 - 920.95 của anh Trương T (sinh năm 1993, trú tại tỉnh Đắk Lắk) đang để trên vỉa hè và không có người trông coi nên cả bọn thống nhất trộm chiếc xe này. S, K và T đứng cảnh giới, còn Đ đi lại dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi cả bọn tẩu thoát.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, biển số 47B1 - 920.95 trị giá 120.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH màu trắng có biển số 47B1 - 920.95 của anh Trương Thương không thu hồi được.

+ Vụ thứ ba: Sau khi lấy trộm được chiếc xe mô tô ở vụ thứ hai, cả bọn tiếp tục đi tìm xe để trộm cắp thì thấy nhà số 378, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu đen, biển số 47B2 - 186.16 của anh Ngô Đ T (sinh năm 1984, trú tại địa chỉ trên) để trước cổng và không có người trông coi nên cả bọn thống nhất trộm chiếc xe này. S, K và T đứng ngoài cảnh giới, còn Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi điều khiển đi về tỉnh Lâm Đồng. Sau đó, K và T điều khiển 02 xe mô tô lấy trộm được ở vụ thứ hai và chiếc xe lấy trộm ở vụ này đi đến thành phố Hồ Chí Minh bán lại cho Nguyễn Văn L (sinh năm 1982, trú tại tỉnh Lâm Đồng) với tổng số tiền 60.000.000 đồng rồi cả bọn chia nhau tiêu xài cá nhân.

Sau khi mua 02 chiếc xe mô tô trên, Nguyễn Văn L liên lạc và bán lại cho Võ Tăng Minh Đ (sinh năm 1982, trú tại thành phố Hồ Chí Minh) với giá 70.000.000 đồng, L được hưởng lợi 10.000.000 đồng. Đ mua 02 chiếc xe mô tô trên về rồi tháo rời các linh kiện ra để bán lẻ cho nhiều khách hàng vãng lai.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47B2 - 186.16 trị giá 80.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu đen, biển số 47B2 - 186.16 của anh Ngô Đ T không thu hồi được.

+ Vụ thứ tư: Vào khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 21/3/2019, K điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại xe Wave, màu đen (không xác định được biển số) của T chở Đặng Quang T, còn S điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại xe Exciter (chưa xác định được biển số) của K, chở Đ đi tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi đi qua nhà số 17 thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cả bọn thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu đen, biển số 47B2 - 354.98 của anh Lê Trường G (sinh năm 1992, trú tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) đang để ở trước cửa nhà và không có người trông coi nên cả bọn thống nhất trộm chiếc xe này. S, K và T đứng ở ngoài cảnh giới để Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi cả bọn đem chiếc xe này cất giấu tại một lô rẫy cà phê tại địa bàn xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47B2 - 354.98 trị giá 120.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu đen, biển số 47B2 - 354.98 của anh Lê Trường G không thu hồi được.

+ Vụ thứ năm: Sau khi cất giấu xe mô tô trộm được ở vụ thứ tư, K, Đ, S và T tiếp tục đi tìm xe mô tô để trộm cắp thì thấy nhà số 114, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng, biển số 47B1 - 734.56 của anh Đỗ T P (sinh năm 1990, trú tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) đang để trên vỉa hè và không có người trông coi nên cả bọn thống nhất trộm chiếc xe này. S, K và T đứng cảnh giới để Đ đi lại dùng vam phá khóa lấy trộm xe, khi đang dắt xe ra thì bị anh P cùng người dân phát hiện truy hô vây bắt Đ. Thấy vậy, S, K và T quay lại giải vây cho Đ, do sợ bị tấn công nên anh P cùng người dân đã để cho Đ cùng đồng bọn chạy thoát và không lấy được xe.

Sau khi chạy thoát, cả bọn quay lại rẫy cà phê ở xã H lấy chiếc xe mô tô đã cất giấu ở vụ thứ tư đi về tỉnh Lâm Đồng. Sau đó, đưa chiếc xe mô tô biển số 47B2 - 354.98 lấy trộm được đi đến thành phố Hồ Chí Minh bán cho một đối tượng (chưa xác định rõ lai lịch) với giá 35.000.000 đồng rồi chia nhau tiêu xài cá nhân.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47B1 - 734.56 trị giá 145.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng, biển số 47B1 - 734.56 của anh Đỗ T P đã thu được và trả lại cho chủ sở hữu.

+ Vụ thứ sáu: Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 05/06/2019, S điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại xe Exciter (chưa xác định được biển số) của K chở Đ đi tìm xe mô tô đế trộm cắp (K biết Đ và S mượn xe đi trộm cắp nhưng vẫn đồng ý). Khi đi qua nhà số 11, thành phố B thấy có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng, biển số 47B1 - 438.38 của anh Nguyễn Quốc C (sinh năm 1992, trú tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) đang để trước cửa và không có người trông coi nên Đ và S thống nhất trộm chiếc xe này. S đứng ngoài cảnh giới, còn Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe. Sau đó, Đ điều khiển xe mô tô này đi đến thành phố Hồ Chí Minh bán cho một đối tượng (chưa xác định được lai lịch) với giá 35.000.000 đồng rồi chia nhau tiêu xài cá nhân.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47B1 - 438.38 trị giá 120.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng, biển số 47B1 - 438.38 của anh Nguyễn Quốc C không thu hồi được.

+ Vụ thứ bảy: Khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 09/06/2019, K điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại xe Wave, màu đen (chưa xác định được biển số) của T chở Đ đi tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi đi qua nhà số 228, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thấy có 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu đỏ - bạc, biển số 47B2 - 246.66 của anh Huỳnh T H (sinh năm 1984, trú tại địa chỉ trên) đang để trước cửa và không có người trông coi nên Đ và K thống nhất trộm chiếc xe này. K đứng ở ngoài cảnh giới để Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe. Sau đó, K điều khiển chiếc xe mô tô lấy trộm được đến tỉnh Lâm Đồng bán cho Huỳnh Trung T (sinh năm 1984, trú tại tỉnh Lâm Đồng) với giá 27.000.000 đồng rồi chia nhau tiêu xài cá nhân.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47B2 - 246.66 trị giá 100.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu đỏ - bạc, biển số 47B2 - 246.66 của anh Huỳnh T H không thu hồi được.

+ Vụ thứ tám: Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 15/06/2019, K điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại xe Wave, màu đen (chưa xác định được biển số) của T chở T, còn Nguyễn Văn V (sinh năm 1993, trú tại tỉnh Gia Lai) điều khiển xe mô tô (chưa xác định được biển số) chở Đ đi tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi cả bọn đi qua nhà số 60 - 62, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng - bạc - đen, biển số 47B1 - 286.94 của anh Lê Xuân C (sinh năm 1977, trú tại địa chỉ trên) đang để trong nhà bên cạnh cửa chính và không có người trông coi nên thống nhất sẽ trộm chiếc xe này. K và Việt đứng ở ngoài cảnh giới, còn Đ và T đột nhập vào trong nhà rồi Đ dùng vam phá khóa xe để T dắt ra ngoài đường rồi tẩu thoát. Sau đó, Đ điều khiển chiếc xe mô tô lấy trộm được đi đến thành phố Hồ Chí Minh bán cho một đối tượng (chưa xác định được lai lịch) với giá 35.000.000 đồng rồi chia cho cả bọn tiêu xài cá nhân.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47B1 - 286.94 trị giá 100.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng - bạc - đen, biển số 47B1 - 286.94 của anh Lê Xuân C không thu hồi được.

+ Vụ thứ chín: Sau khi lấy trộm được chiếc xe mô tô ở vụ thứ tám, K, Đ, T và V tiếp tục đi tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi cả bọn đi qua nhà số 179, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thấy có 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu đỏ - đen, biển số 47T1 - 056.78 của anh Ngô Văn V (sinh năm 1997, trú tại địa chỉ trên) để trong nhà, cạnh cửa chính đang mở, Đ cùng đồng bọn quan sát thấy không có người ở trong nhà nên thống nhất trộm chiếc xe này. K, V Xôi và T đứng ngoài đường cảnh giới, còn Đ đột nhập vào trong nhà rồi Đ dùng vam phá khóa xong đang dắt xe ra thì bị mẹ của anh V là bà Nguyễn Thị Kim C phát hiện truy hô nên Đ bỏ lại chiếc xe vừa phá khóa được chạy ra ngoài đường rồi cùng đồng bọn tẩu thoát nên không lấy được xe.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47T1 - 056.78 trị giá 130.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu đỏ - đen, biển số 47T1 - 056.78 của anh Ngô Văn V đã thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu.

+ Vụ thứ mười: Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 01/07/2019, K điều khiển xe mô tô hiệu Honda, loại xe Wave, màu đen (chưa xác định được biển số) của Bùi Minh T chở T, còn S điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại xe Exciter (chưa xác định được biển số) của K chở Đ đi tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi cả bọn đi qua nhà số 41, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thấy 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu đỏ đen, biển số 47B1 - 429.29 của chị Võ Thị Hồng T (sinh năm 1987, trú tại địa chỉ trên) đang để trên vỉa hè, phía trước cửa ra vào nhà, không có người trông coi nên Đ cùng đồng bọn thống nhất trộm chiếc xe này. K, T và S đứng ngoài đường cảnh giới để Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe, khi đang dắt xe ra thì bị chị T phát hiện truy hô nên Đ bỏ lại chiếc xe chạy ra ngoài đường rồi cùng đồng bọn tẩu thoát.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47B1 - 429.29 trị giá 90.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu đỏ đen, biển số 47B1 - 429.29 của chị Võ Thị Hồng T đã được thu hồi và trả lại cho chị T.

+ Vụ thứ mười một: Sau khi lấy trộm xe mô tô ở vụ thứ mười không thành công, cả bọn tiếp tục đi tìm xe mô tô để trộm cắp thì thấy nhà số 116, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng, biển số 47R5 - 2345 của anh Phạm Ngọc Anh T (sinh năm 1976, trú tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) đang để trên vỉa hè, trước cửa nhà và không có người trông coi nên cả bọn thống nhất trộm chiếc xe này. K, S và T đứng ngoài đường cảnh giới, còn Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi cùng đồng bọn tẩu thoát khỏi hiện trường.

Sau đó, S điều khiển chiếc xe mô tô lấy trộm được đi đến thành phố Hồ Chí Minh bán cho Nguyễn Văn L với giá 35.000.000 đồng rồi chia cho cả bọn tiêu xài cá nhân. Sau khi mua chiếc xe mô tô trên, L bán lại cho Võ Tăng Minh Đ với giá 38.000.000 đồng, L được hưởng lợi 3.000.000 đồng. Đ mua chiếc xe mô tô này về tháo rời linh kiện ra bán lẻ cho nhiều khách vãng lai (không xác định được lai lịch) nên Cơ quan điều tra không tiến hành thu giữ được.

Tại kết luận định giá số: 230 ngày 11/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47R5 - 2345 trị giá 95.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng, biển số 47R5 - 2345 của anh Phạm Ngọc Anh T không thu hồi được.

+ Vụ thứ mười hai: Khoảng 18 giờ 40 phút, ngày 23/10/2019, T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại xe Exciter, màu đen, gắn biển số 71B3 - 038.39, số máy: G3D4E - 017899, số khung: RLCUG0610FY017995 chở Đ đi tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi Đ và T đi qua nhà số 06, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen - trắng, biển số 47B1 - 767.15 của anh Đặng Quốc B (sinh năm 1991, trú tại thôn 2, xã Hòa T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) đang để tại hiên nhà, không có người trông coi nên cả hai thống nhất trộm chiếc xe này. T đứng ngoài cảnh giới, còn Đ đi vào dắt chiếc xe trên ra đường, dùng vam phá khóa rồi nổ máy bỏ chạy thì bị lực lượng Cảnh sát hình sự Công an thành phố B bắt quả tang.

Tại kết luận định giá số: 316 ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận chiếc xe mô tô biển số 47B1 - 767.15 trị giá 75.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen - trắng, biển số 47B1 - 767.15 của anh Đặng Quốc B đã được thu hồi và đã trả lại.

Lưu Văn Đ và đồng bọn thực hiện 06 vụ trộm cắp tài sản tại thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng như sau:

+ Vụ thứ nhất: Vào ngày 12/02/2019, Đ rủ S, K và T đến thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng để trộm cắp xe mô tô thì cả nhóm đồng ý. Đ chuẩn bị ba lô bên trong đựng biển số xe giả, cờ lê, ống khóa ... S dùng xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave chở T, còn K điều khiển xe Exciter chở Đ. Khoảng 19 giờ 00 cùng ngày, cả bọn thấy trước nhà số 66, thành phố Đ có 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, màu đen, biển số 49B1 - 692.67, số máy: G3D4E646717, số khung RLCUG0610JY620992 của anh Nguyễn Thế T (sinh năm 1984, trú tại thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng) dựng trước nhà và không có người trông coi nên cả bọn thống nhất lấy trộm chiếc xe này. S và T đứng ở ngoài cảnh giới, còn Đ và K đi vào lấy trộm xe, Đ dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi cả bọn tẩu thoát. Sau đó, T và s điều khiển chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được đi đến khu vực đồi L thuộc phường 5, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng cất giấu, còn Đ và K tiếp tục đi tìm xe để trộm.

Tại kết luận định giá số: 155 ngày 27/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận chiếc xe mô tô biển số 49B1 - 692.67 trị giá 40.500.000 đồng.

Chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, màu đen, biển số 49B1 - 692.67 của anh Nguyễn Thế T đã được thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu.

+ Vụ thứ hai: Sau khi thực hiện xong vụ trộm thứ nhất, Đ và K tiếp tục đi tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi cả hai đi qua nhà số 12/1, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng thì thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Sonic, màu đỏ đen, biển số 49B1 - 575.57 của anh Mai Vũ Đăng K (sinh năm 1976, trú tại địa chỉ trên) đang để trước nhà và không có người trông coi nên cả hai thống nhất lấy trộm chiếc xe này. K đứng ngoài cảnh giới để Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi điều khiển về khu vực đồi L, nơi đã cất giấu chiếc xe trộm cắp được từ vụ thứ nhất. Tại đây, Đ, K, T và S đã mở cốp, thay biển số xe 49B1 - 692.67 thành biển số 48B1- 606.62 và gỡ biển số xe 49B1 - 575.57.

Tại kết luận định giá số: 155 ngày 27/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận chiếc xe mô tô biển số 49B1 - 575.57 trị giá 54.000.000 đồng.

Xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Sonic, màu đỏ đen, biển số 49B1 - 575.57 của anh Mai Vũ Đăng K đã được thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu.

+ Vụ thứ ba: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 18/02/2019, Đ cùng K, T, S điều khiển 02 xe mô tô, loại xe Wave và Exciter (có đặc điểm như vụ thứ nhất và thứ hai) tiếp tục đi tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi cả bọn đi qua quán RIO K3 địa chỉ thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng thì thấy trước quán có dựng nhiều xe mô tô nhung không có người trông coi nên cả bọn thống nhất lấy trộm xe ở đây. S và K đứng ngoài cảnh giới để Đ và T đi vào vị trí dựng 02 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe AirBlade, Đ dùng vam phá khóa lần lượt 02 chiếc mô tô gồm 01 chiếc màu trắng, biển số 49B1 - 522.60 của anh Phạm Văn L (sinh năm 1984, trú tại thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng) và 01 chiếc màu đen, biển số 49E1 - 491.20 của anh Nguyễn Quốc Q (sinh năm 1979, trú tại thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng) rồi Đ và T điều khiển 02 chiếc xe mô tô này về khu vực đồi L cất giấu. Sau đó, cả bọn thay biển số 02 xe mô tô vừa trộm được rồi điều khiển về huyện Đ để cất giấu, còn 02 chiếc xe Exciter và Sonic trộm được ở vụ thứ nhất và thứ hai vẫn cất giấu tại đây. Sau khi cất giấu 02 chiếc xe mô tô AirBlade tại huyện Đ thì cả bọn bắt taxi quay lại khu vực đồi L thì bị Công an thành phố Đ đi tuần tra phát hiện nên cả bọn để lại 02 chiếc xe trộm được ở vụ thứ nhất và thứ hai cùng các dụng cụ để trộm cắp tại đây. Cả nhóm đi về lại huyện Đ lấy 02 chiếc xe AirBlade đã cất giấu trước đó bán cho một người tên Đ (chưa xác định được lai lịch) tại thành phố Hồ Chí Minh với giá 20.000.000 đồng rồi chia nhau tiêu xài cá nhân.

Tại kết luận định giá số: 46 ngày 18/03/2020 và số: 109 ngày 27/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận chiếc xe mô tô biển số 49B1 - 522.60 trị giá 31.500.000 đồng, xe mô tô biển số 49E1 - 491.20 trị giá 22.000.000 đồng.

Xe mô tô màu trắng, biển số 49B1 - 522.60 của anh Phạm Văn L và xe mô tô màu đen, biển số 49E1 - 491.20 của anh Nguyễn Quốc Q chưa thu hồi được.

+ Vụ thứ tư: Vào ngày 23/9/2019, Đ rủ T đến thành phố Đ để trộm cắp xe mô tô thì T đồng ý. T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu đỏ đen để chở Đ đi qua quán cà phê “My Way” ở thành phố Đ thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter màu đen, biển số 49B1 - 567.41 của anh Hồ B Q (sinh năm 1980, trú tại thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng) dựng trước quán cà phê “My Way”, không có người trông coi nên cả hai thống nhất trộm chiếc xe này. T đứng ngoài cảnh giới, còn Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi điều khiển rời khỏi hiện trường. Sau đó, T tự đục lại số khung, số máy rồi gắn biển số giả để sử dụng đi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, đến ngày 23/10/2019 T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B bắt quả tang khi đang trộm cắp tài sản và tạm giữ xe để điều tra.

Tại kết luận định giá số: 2146 ngày 12/8/2020 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng tỉnh Đắk Lắk kết luận chiếc xe mô tô biển số 49B1 - 567.41 trị giá 25.000.000 đồng

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter màu đen, biển số 49B1 - 567.41 của anh Hồ B Q đã được thu hồi và trả lại.

+ Vụ thứ năm: Vào khoảng 17 giờ 00 phút 21/10/2019, Đ rủ T đến thành phố Đ để trộm cắp xe mô tô và T đã dùng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter đã trộm được ở vụ thứ tư để chở Đ. Khi cả hai đến trước chung cư C5 thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng đen, biển số 49B1 - 363.63 của anh Kiều Đ L (trú tại thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng) cho chị Trần Thị Bích V (sinh năm 1986, trú tại thành phố Hồ Chí Minh) mượn sử dụng, chị V dựng xe trước chung cư, không có người trông coi nên Đ và T thống nhất trộm chiếc xe này. T đứng ngoài cảnh giới, còn Đ đi vào dùng vam phá khóa xe rồi điều khiển về khu vực nghĩa trang thuộc huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng cất giấu. Sau đó, Đ giao chiếc xe vừa trộm cắp được cho Huỳnh Trung T (sinh năm 1984, trú tại huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng) đi tiêu thụ.

Tại kết luận định giá số: 46 ngày 18/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận chiếc xe mô tô biển số 49B1 - 363.63 trị giá 35.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu trắng đen, biển số 49B1 - 363.63 của anh Kiều Đ L không thu hồi được.

+ Vụ thứ sáu: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 21/10/2019, Lưu Văn Đ rủ Đặng Thế T đến thành phố Đ tìm xe mô tô để trộm cắp. Khi cả hai đi qua nhà số 339/2 thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng thì thấy xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe PCX, màu xám bạc, biển số 49B1 - 478.61 của ông Trần Minh T (sinh năm 1969, trú tại địa chỉ trên) để trước cửa nhà và không có người trông coi nên Đ và T thống nhất trộm chiếc xe này. T đứng ngoài cảnh giới, còn Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi điều khiển về khu vực hồ cá Nam s thuộc huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng cất giấu. Sau đó, Đ và T giao xe cho Đặng Thế Anh s mang đi tiêu thụ, đang trên đường đi tiêu thụ thì S bị lực lượng Công an tuần tra kiểm tra và tạm giữ xe. S bỏ trốn đến ngày 23/02/2020 thì bị Cơ quan Công an triệu tập lên làm việc và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, còn Đ và T bỏ trốn đến thành phố B, tỉnh Đắk Lắk tiếp tục trộm cắp xe mô tô. Vào ngày 23/10/2019 khi Đ và T đang thực hiện hành vi trộm cắp thì bị Công an thành phố B phát hiện bắt quả tang.

Trong vụ trộm cắp này, thì S không trực tiếp đi trộm xe cùng Đ và T, nhưng trước khi đi trộm thì cả ba có trao đổi bàn bạc với nhau và giao cho s có trách nhiệm đi tiêu thụ xe.

Tại kết luận định giá số: 668 ngày 30/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận chiếc xe mô tô biển số 49B1 - 478.61 trị giá 36.600.000 đồng.

Xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe PCX, màu xám bạc, biển số 49B1 - 478.61 của ông Trần Minh T đã được thu hồi và trả lại.

Lưu Văn Đ cùng đồng bọn còn thực hiện trộm cắp tại thành phố P, tỉnh Gia Lai, cụ thể như sau:

+ Vụ thứ nhất: Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 23/6/2019, Lưu Văn Đ rủ Đặng Thế Anh S, Bùi Minh T và Nguyễn Văn V điều khiển 02 xe mô tô đến thành phố P, tỉnh Gia Lai để trộm cắp. Khi cả bọn đi qua tiện bánh N ở thành phố P, tỉnh Gia Lai thì thấy 01 chiếc xe mô tô biển số 81B1 - 178.99 nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu đỏ đen bạc của anh Văn Quý N (sinh năm 1997, trú tại thành phố P, tỉnh Gia Lai, xe của anh Lê Phi Nhật N, sinh năm 1990; Địa chỉ: thành phố P, tỉnh Gia Lai giao cho anh N quản lý) đang để trước quán và không có người trông coi nên cả bọn thống nhất trộm chiếc xe này. S, T và V đứng ngoài cảnh giới, còn Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi cả bọn điều khiển xe đến lô cao su (chưa xác định được vị trí cụ thể) cất giấu.

Tại kết luận định giá số: 106 ngày 22/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố P kết luận xe mô tô biển số 81B1 - 178.99 trị giá 48.000.000 đồng

Xe mô tô biển số 81B1 - 178.99 nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu đỏ đen bạc của anh Lê Phi Nhật N không thu hồi được.

+ Vụ thứ hai: Các bị cáo Đ, S, T và V khai nhận: sau khi cất giấu xe trộm cắp được ở vụ thứ nhất, Đ, S, T và V tiếp tục đi tìm xe mô tô ở thành phố P để trộm cắp. Đến tối cùng ngày cả bọn thấy 01 xe Winner màu trắng (không rõ biển số và địa chỉ cụ thể ở đâu) nên cả bọn thống nhất trộm chiếc xe này. S, T và V Xôi đứng ngoài cảnh giới, còn Đ đi vào dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi cả bọn điều khiển về khu vực lô cao su nơi đã cất giấu xe mô tô đã trộm được ở vụ thứ nhất. Sau đó, cả bọn điều khiển 02 xe này đến thành phố Hồ Chí Minh bán cho 01 người tên Đ (chưa xác định được lai lịch) với giá 38.000.000 đồng (trong đó xe mô tô biển số 81B1 - 178.99 bán được 27.000.000 đồng, xe mô tô Winner bán được 11.000.000 đồng) rồi chia nhau tiêu xài cá nhân.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành các biện pháp truy tìm nhưng đến nay vẫn chưa thu giữ được 02 chiếc xe trên cũng như chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe Winner màu trắng. Do vậy, không xác định được giá trị xe mô tô Winner màu trắng nói trên.

+ Vụ thứ ba: Các bị cáo, Đ, K, T và V khai nhận: sau khi thực hiện vụ trộm thứ nhất và thứ hai được vài ngày (không xác định được ngày cụ thể), Đ tiếp tục rủ K, T và V đến thành phố P, tỉnh Gia Lai để trộm cắp. Đến khoảng 19 giờ 00, cả bọn thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe SH, màu xám đen dựng trước cửa nhà một người dân (chưa xác định được địa chỉ cụ thể và chủ sở hữu) nên đã thống nhất trộm chiếc xe này. K, V đứng ở ngoài cảnh giới, còn Đ và T vào rồi Đ dùng vam phá khóa lấy trộm xe rồi cả bọn điều khiển trốn khỏi hiện trường. Sau đó, Đ điều khiển xe mô tô trên xuống thành phố Hồ Chí Minh bán cho một người chưa rõ nhân thân lai lịch với giá 27.000.000 đồng rồi chia cho cả bọn tiêu xài cá nhân. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành các biện pháp truy tìm nhưng đến nay vẫn chưa thu giữ và chưa xác định được chủ sở hữu của chiếc xe trên. Do vậy, không có căn cứ để xác định được giá trị chiếc xe này.

* Đối với hành vi phạm tội của Nguyễn Văn L: Mặc dù không tham gia và cũng không hứa hẹn trước với bị cáo Lưu Văn Đ cùng đồng bọn về việc trộm cắp đối với 03 chiếc xe mô tô biển số 47B1-920.95; 47B2-186.16; 47R5-2345 có tổng giá trị 295.000.000 đồng (Đ cùng đồng bọn trộm vào ngày 26/01/2019 và 01/7/2019). Tuy nhiên, L biết rõ 03 chiếc xe này là do Đ cùng đồng bọn trộm cắp mà có nhưng vẫn mua rồi bán lại cho bị cáo Võ Tăng Minh Đ để thu lợi bất chính.

Ngoài ra, sau khi mua xe mô tô do Đ cùng đồng bọn trộm cắp, L biết rõ Đ cùng đồng bọn nhờ đặt mua vam phá khoá là để về thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô. Vậy nhưng, L vẫn nhiều lần đặt mua tổng cộng 40 vam phá khoá của bị cáo Uông Văn K (gồm vam có rãnh giá 400.000 đồng/01 chiếc và vam không có rãnh giá 200.000 đồng/01 chiếc) về bán lại cho Lưu Văn Đ với giá cao hơn để hưởng lợi bất chính (L bán cho Đ vam có rãnh giá 500.000 đồng/01 chiếc và vam không có rãnh giá 300.000 đồng/01 chiếc). Đồng thời, trong quá trình trộm cắp thì Đ cùng đồng bọn đã 02 lần sử dụng vam phá khoá do L bán lại để trộm cắp chiếc xe mô tô biển số 47B2-35498 vào ngày 21/3/2019 và xe mô tô biển số 47B1-76715 vào ngày 23/10/2019 tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có tổng giá trị 195.000.000 đồng. Hành vi này của L đã giúp sức về công cụ cho bị cáo Đ cùng đồng bọn thực hiện trộm cắp 02 chiếc xe mô tô nói trên, do vậy L phải chịu trách nhiệm chung về đồng phạm đối với 02 chiếc xe mô tô này.

* Hành vi phạm tội của bị cáo Uông Văn K: Mặc dù bị cáo K không trực tiếp tham gia cùng Đ và đồng bọn đi trộm cắp xe mô tô nhưng vào tháng 3/2019, khi bị cáo Nguyễn Văn L đến đặt và mua vam phá khoá thì K biết rõ là L mua về để cho đồng bọn đi trộm cắp xe mô tô. Tuy nhiên, do hám lợi nên K vẫn làm vam phá khoá bán cho L nhiều lần với số lượng 40 chiếc để L đưa cho Đ cùng đồng bọn đi trộm cắp xe mô tô. Sau khi mua được vam phá khoá thì Đ cùng đồng bọn đã 02 lần sử dụng vam phá khoá do L bán lại để trộm cắp chiếc xe mô tô biển số 47B2- 35498 vào ngày 21/3/2019 và xe mô tô biển số 47B1-76715 vào ngày 23/10/2019 tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk có tổng giá trị 195.000.000 đồng. Hành vi này, của K đã giúp sức về công cụ cho bị cáo Đ, L cùng đồng bọn thực hiện trộm cắp 02 chiếc xe mô tô nói trên, do vậy K phải chịu trách nhiệm chung về đồng phạm đối với 02 chiếc xe mô tô này.

* Đối với hành vi phạm tội của Võ Tăng Minh Đ: trước khi mua 03 xe mô tô biển số 47B1-920.95; 47B2-186.16; 47R5-2345 có tổng giá trị 295.000.000 đồng (Đ cùng đồng bọn trộm vào ngày 26/01/2019 và 01/7/2019) do L bán thì giữa Đ với L, Đ cùng đồng bọn không có sự bàn bạc, hứa hẹn gì trước; đồng thời Đ chỉ mua xe của L bán lại chứ không biết Đ cùng đồng bọn là ai. Khi L gọi điện bán xe và nói xe không có giấy tờ thì Đ biết rõ là xe trộm cắp mà có nhưng vẫn mua về tháo rời ra bán để thu lợi bất chính.

* Về việc thu giữ, tạm giữ đồ vật và xử lý vật chứng:

- Thu giữ đối với Lưu Văn Đ trong quá trình bắt người phạm tội quả tang, gồm:

+ 01 xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH, biển số 47B1-767.15;

+ 01 xe mô tô hiệu Yamaha màu sơn đen, biển số 71B3 - 038.79;

+ 01 thiết bị điện tử dùng để phá sóng;

+ 03 thanh sắt một đầu lục giác, đầu còn lại tán dẹp dài 08 cm;

+ 01 thanh sắt hình chữ “T”;

+ 02 cục kim loại màu vàng đều có kích thước vuông 01 cm, dài 05 cm;

+ 01 điện thoại di động hiệu Mi màu vàng;

+ 01 điện thoại di động Realme màu xanh;

+ 01 túi xách bằng da màu nâu;

+ Số tiền 500.000 đồng.

- Thu giữ đối với Đặng Thế T trong quá trình bắt người phạm tội quả tang:

+ 01 ba lô bằng vải màu đỏ đen, bên trong có 01 can nhựa màu trắng loại can 10 lít;

+ 01 túi xách bằng da màu nâu;

+ 01 hộp nhựa chứa 06 thanh kim loại dài 08 cm, một đầu lục giác, một đầu tán dẹp;

+ 01 thanh sắt hình tròn đường kính 01 cm, dài 05 cm;

+ 02 cờ lê cỡ 10;

+ 01 con dao gấp bằng kim loại màu đen, cán dao dài 15cm, lưỡi dao dài 12cm;

+ 01 dây lắc đeo tay bằng da màu nâu, hai đầu gắn móc dây bằng kim loại;

+ 01 bình xịt hơi cay màu đen đã bị gãy tay cầm;

+ 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu hồng;

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia 106 màu đen;

+ 01 biển số xe 93K1 - 0750;

+ 01 biển số xe 77L1 - 106.34;

+ Số tiền 850.000 đồng.

- Quá trình khám nghiệm hiện trường vụ thứ năm tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đã thu giữ:

+ 01 thiết bị điện tử màu đen, phần đầu có nối 3 thiết bị phá sóng định vị;

+ 01 thanh sắt có kích thước dài 08 cm, rộng nhất 0,8 cm;

+ 01 mũ bảo hiểm sơn màu đen hiệu Royal.

- Tạm giữ đối với Phan D K:

01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, có kèm 01 sim điện thoại.

- Khám xét thu giữ đối với Võ Tăng Minh Đ, gồm:

+ 06 cơ lê bằng kim loại màu bạc, lần lượt các cỡ 12, 13, 17,19, 23, 24;

+ 01 mỏ lết bằng kim loại màu bạc cỡ 12;

+ 01 tuốc nơ vít bằng kim loại dài 25 cm, phần tay cầm bằng nhựa;

+ 01 khung xe mô tô hiệu Honda không có giàn vỏ nhựa, không có biển số và bánh xe;

+ 01 ống bô xe mô tô màu đen;

+ 01 bình xăng xe mô tô màu đen;

+ 01 gấp chân chống xe mô tô màu bạc;

+ 01 chân chống giữa của xe mô tô;

+ 01 lốc nồi xe mô tô màu bạc hiệu Honda;

+ 01 máy mài cầm tay màu đỏ;

+ 01 máy cắt màu cam không có nhãn hiệu;

+ 02 lốc máy xe mô tô đã bị mài mòn số máy.

- Tạm giữ của Võ Tăng Minh Đ, gồm:

+ 01 khung xe mô tô hiệu Honda, không có giàn vỏ nhựa, cổ xe và biển số;

+ 01 biển số 59B1 - 445.47;

+ 01 xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH màu trắng, gắn biển số 59E1 - 944.75

+ 01 xe mô tô hiệu Honda màu đen, không có dàn vỏ nhựa.

- Chị Nguyễn Thị Cẩm N (vợ của Võ Tăng Minh Đ) giao nộp:

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu sơn đen trắng, không gắn biển số.

- Tạm giữ đối với Nguyễn Văn L:

+ 01 xe mô tô loại SH màu trắng, biển số 60F2-870.00, kèm 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Lê Văn L;

+ 01 điện thoại di động Iphone 5s màu trắng.

+ Vợ bị cáo Nguyễn Văn L đã giao nộp 2.000.000 đồng.

- Tạm giữ đối với Uông Văn K:

+ 10 thanh kim loại dài 08 em có phần đầu được mài dẹp 04 em, được đựng trong 01 hộp nhựa màu trắng;

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J6 màu đen vàng;

+ 1.000.000 đồng.

+ 01 hộp nhựa màu trắng bên trong chứa 10 thanh kim loại;

+ 01 mô tơ màu xanh 02 đầu gắn 02 cục đá mài.

- Tạm giữ tại khu vực đồi L thuộc phường 5, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, gồm:

+ 01 chiếc xe mô tô hiệu Exciter màu đen, gắn biển số 48B1 - 606.62;

+ 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Sonic, màu đỏ đen, không gắn biển số;

+ 01 can nhựa màu trắng loại 10 lít có nắp xanh;

+ 01 ba lô màu đen bên trong có 01 can nhựa màu vàng loại 10 lít, 01 quần Jean, 01 kìm có cán nhựa màu xanh;

+ 02 mũ bảo hiểm loại 3/4 đầu màu đen;

+ 01 mũ bảo hiểm dạng toàn phần màu đen;

+ 01 ba lô màu xám đen, bên trong có 04 biển số gồm: 49E1 - 491.20, 49B1 - 522.60, 49B1 - 692.67, 49B1 - 575.57;

+ 01 mỏ lết màu bạc;

+ 03 cờ lê;

+ 3 tuốc nơ vít;

+ 01 ống sắt chữ “L”;

+ 01 ống sắt hình trụ tròn;

+ 01 áo khoác dù màu xanh;

+ 01 biển số 48B1 - 719.86;

+ 01 ống bơm bánh xe nhựa màu xanh.

- Tạm giữ của anh Trần Văn L: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, biển số 49H1 - 367.22 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 49H1 - 367.22 mang tên Trần Văn L.

- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã xử lý các vật chứng, gồm:

+ Trả xe mô tô biển số 71B3 - 038.79, số máy G3D4E - 017899, số khung RLCUG0610FY017995 cho chủ sở hữu là anh Hồ B Q (đây là xe Đặng Thế T đã đục lại số khung, số máy và thay biển số giả để sử dụng làm phương tiện phạm tội, xe có biển sổ, số máy, số khung nguyên thủy là 49B1 - 567.41, G3D4E408070, 0610GY388956).

+ Trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, không có giàn vỏ nhựa, không biển số, số khung bị mài mòn, số máy HIKF03E0041796HIKGG và 01 biển số 59B1 - 445.47 cho chủ sở hữu là chị Lê T H;

+ Trả lại xe mô tô biển số 47B1 - 429.29, số máy JF14E5000628KTFE1, số khung JF2900AY000620 cho chủ sở hữu là chị Võ Thị Hồng T;

+ Trả lại xe mô tô biển số 47B1 - 767.15, số máy JF14E5001008KTFE1, số khung RLHJF2901AY001016 cho chủ sở hữu là anh Đặng Quốc B;

+ Trả lại xe mô tô có biển số 49H1 - 367.22, số máy 0610HY586261, số khung G3D4E611392 cho chủ sở hữu là anh Trần Văn L, kèm giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Trần Văn L.

Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng đã ra quyết định xử lý các vật chứng, gồm:

+ Trả lại xe mô tô có biển số 49B1 - 692.67, số máy G3D4E646717, số khung 0610JY620992 cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Thế T;

+ Trả lại xe mô tô có biển số 49B1 - 575.57, số máy KB11E1096939, số khung 1117GK097366 cho chủ sở hữu là anh Mai Vũ Đăng K;

+ Trả lại xe mô tô có biển số 49B1 - 478.61, số máy 5600EY411947, số khung JF56E0026456 cho chủ sở hữu là ông Trần Minh T.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk tiếp tục tạm giữ đối với các vật chứng để điều tra làm rõ, gồm:

+ 01 biển số xe 93K1 - 0750 (do chưa xác định được chủ sở hữu là ai);

+ 01 xe mô tô hiệu Honda, loại xe SH màu trắng, gắn biển số 59E1 - 944.75 (do trong quá trình điều tra bị cáo Võ Tăng Minh Đ Khai là của anh Lê Hoàng D, trú tại thành phố Hồ Chí Minh gửi tại tiệm của Đ để sơn. Tuy nhiên, hiện nay anh D đã đi khỏi địa phương nên chưa tiến hành lấy lời khai để làm rõ xử lý theo quy định của pháp luật);

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu sơn đen trắng, không gắn biển số (vì quá trình điều tra xác định xe này là của anh Huỳnh K H trú tại thành phố Hồ Chí Minh đứng tên đăng ký. Tuy nhiên, hiện nay anh H không có mặt tại địa phương nên chưa làm rõ được nguồn gốc).

* Đối với Bùi Minh T thì trong quá trình điều tra các bị cáo Lưu Văn Đ, Phan D K và Đặng Thế Anh S khai nhận là T có tham gia 05 vụ trộm cắp tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và 02 vụ tại thành phố P, tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, quá trình làm việc thì T không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Đồng thời đến nay, thời hạn điều tra bổ sung vụ án đã hết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định tách vụ án hình sự và tách hành vi của Bùi Minh T để tiếp tục điều tra xử lý sau.

* Đối với Nguyễn Văn V quá trình điều tra các bị cáo Lưu Văn Đ, Phan D K và Đặng Thế Anh S khai nhận V có tham gia 02 vụ trộm cắp xe mô tô tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk và 01 vụ tại thành phố P, tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, quá trình làm việc V chỉ thừa nhận thực hiện 01 vụ tại thành phố B và 01 vụ tại thành phố P, còn 01 vụ không thừa nhận. Mặt khác, ngoài các vụ trộm cắp nói trên thì Nguyễn Văn V còn cùng với nhiều đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân lai lịch) thực hiện nhiều vụ trộm cắp xe mô tô tại thành phố P và hiện nay đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai khởi tố và tạm giam. Đến nay, thời hạn điều tra bổ sung đối với vụ án đã hết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định tách vụ án hình sự và tách hành vi của Nguyễn Văn V để tiếp tục phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P điều tra xử lý sau.

* Đối với đối tượng Huỳnh Trung T đã tiêu thụ xe mô tô do Lưu Văn Đ cùng đồng bọn trộm cắp mà có, hiện nay T đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa làm rõ hành vi của Tuấn. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã tách vụ án và tách hành vi của Tuấn để tiếp tục điều tra xử lý sau.

* Đối với đối tượng Đại và C, trong quá trình điều tra đã xác định được Đại là người đã bán vam phá khóa cho Đ để Đ cùng đồng bọn thực hiện hành vi trộm cắp, còn C là người đã giới thiệu L đến mua vam phá khóa của K. Tuy nhiên, hiện nay chưa xác định được nhân thân lai lịch của 02 đối tượng này, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã tách hành vi của 02 đối tượng này để tiếp tục điều tra làm rõ.

* Đối với 02 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Winner và SH (chưa xác định được biển số) mà các bị cáo Lưu Văn Đ, Đặng Thế Anh s, Phan D K khai là đã trộm cắp ở vụ thứ hai và thứ ba tại thành phố P, tỉnh Gia Lai, tuy nhiên Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu và chưa thu hồi được tài sản bị trộm cắp để yêu cầu định giá nên chưa đủ căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo trên. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã tách hành vi trên để tiếp tục điều tra làm rõ.

* Đối với biển số xe 93K1 - 0750, Cơ quan điều tra đã tiến hành làm việc với chị Nguyễn Thị Ngọc H (trú tại tỉnh Bình Phước) là người đứng tên đăng ký đối với xe mô tô có biển số trên. Tuy nhiên, chị H đã bán xe mô tô có biển số trên cho một người không rõ nhân thân lai lịch từ lâu nên hiện nay không xác định được chủ sở hữu. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

* Quá trình điều tra, chị Trần Thị Bích V khai nhận ngoài chiếc xe mô tô biển số 49B1-363.63 mà chị mượn của anh Kiều Đ L bị trộm, thì còn có 01 sợi dây chuyền trị giá 70.000.000 đồng; 01 mặt dây chuyền trị giá 30.000.000 đồng; 01 vòng tay trị giá 10.000.000 đồng; 01 vòng tay bằng vàng và chiếc nhẫn bằng vàng trị giá 17.000.000 đồng; 01 chiếc nhẫn bằng lông đuôi voi trị giá 5.000.000 đồng. Tất cả các nữ trang nói trên được bỏ trong 02 chiếc hộp đặt trong một túi xách để trong cốp xe. Tuy nhiên, quá trình điều tra ban đầu tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ thì chị V không cung cấp thông tin về nguồn gốc, hóa đơn chứng từ chứng minh các nữ trang này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã nhiều lần mời chị V đến để làm việc nhưng chị V đều không có mặt và hiện nay chị V cũng không có mặt tại địa phương. Mặt khác, quá trình làm việc, thì các bị cáo đều khai nhận không biết các nữ trang nói trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk cũng đã tiến hành yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Đắk Lắk định giá các nữ trang nói trên, nhưng Hội đồng định giá đã từ chối định giá vì không đủ điều kiện. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã tách vụ án hình sự để tiếp tục điều tra làm rõ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 42/2021/HSST ngày 28-5-2021, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo các Lưu Văn Đ, Đặng Quang T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lưu Văn Đ 18 (mười tám) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/10/2019.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Quang T 08 (tám) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 20/4/2020.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm c khoản 2 Điều 323; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 05 (năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 03 (ba) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt hai tội, buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chấp hành hình phạt chung là 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam ngày 29/10/2019.

Ngoài ra bản án còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác trong vụ án, phần trách nhiệm dân sự, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 11/6/2021 các bị cáo Lưu Văn Đ, Đặng Quang T, Nguyễn Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo Lưu Văn Đ và Nguyễn Văn L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; bị cáo Đặng Quang T xin rút toàn bộ kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nang phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đối với bị cáo Đặng Quang T đã rút toàn bộ kháng cáo tại phiên tòa; đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm, Bản án sơ thẩm đối với bị cáo có hiệu lực pháp luật. Đối với hai bị cáo Đ và L Bản án sơ thẩm đã xét xử là đúng pháp luật các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết gì mới, do đó đề nghị bác kháng cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm đối với hai bị cáo.

Bị cáo Lưu Văn Đ thừa nhận hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm và xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Bị cáo Nguyễn Văn L thừa nhận hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm và xin giảm nhẹ hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Từ tháng 01/2019 đến tháng 10/2019, bị cáo Lưu Văn Đ cùng với các bị cáo khác chuẩn bị công cụ, phương tiện thực hiện 19 vụ trộm cắp tài sản là 20 chiếc xe mô tô có tổng giá trị 1.577.600.000 đồng trên các địa bàn thành phố B, tỉnh Đăk Lăk (12 vụ); thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng (6 vụ) và thành phố P, tỉnh Gia Lai (3 vụ); trong đó, bị cáo Lưu Văn Đ tham gia 19 vụ trộm cắp 20 chiếc xe mô tô có tổng trị giá 1.577.600.000 đồng; bị cáo Đặng Quang T tham gia cùng đồng bọn 05 vụ trộm cắp 06 xe mô tô có tổng trị giá 413.000.000 đồng; bị cáo Nguyễn Văn L đã giúp sức cho bị cáo Đ cùng đồng bọn trộm cắp 02 vụ với 02 xe mô tô có trị giá 195.000.000 đồng; ngoài ra, bị cáo Nguyễn Văn L đã tiêu thụ 03 xe mô tô do bị cáo Đ cùng đồng bọn phạm tội mà có với tổng trị giá 295.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Lưu Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo Đặng Quang T về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự; bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 và điểm c khoản 2 Điều 323 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của các bị cáo, thấy:

[2.1] Đối với bị cáo Đặng Quang T tại phiên tòa đã rút toàn bộ kháng cáo, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại Điều 348 Bộ luật tố tụng Hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo, Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo T kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

[2.2] Đối với bị cáo Lưu Văn Đ và bị cáo Nguyễn Văn L, thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của nhiều người, thực hiện hành vi phạm tội liên tiếp nhiều lần, có sự chuẩn bị phương tiện và bàn bạc phân công, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và tài sản chiếm đoạt đặc biệt lớn; hành vi phạm tội của các bị cáo gây mất trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân tại các địa phương tỉnh ĐắkLắk, tỉnh Gia Lai và tỉnh Lâm Đồng.

[2.2.1] Đối với bị cáo Lưu Văn Đ là người chủ động lên kế hoạch phân công nhiệm vụ và chuẩn bị các công cụ phương tiện như vam phá khóa, thiết bị phá sóng, dao, bình xịt hơi cay... và trực tiếp dùng vam phá khóa để trộm xe, sau đó liên hệ với các đối tượng để tiêu thụ tài sản trộm cắp được; bị cáo Đ đã trực tiếp tham gia trộm cắp 19 vụ với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 1.577.600.000 đồng phạm tội thuộc khoản 4 Điều 173 BLHS năm 2015; về nhân thân bị cáo có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” vào năm 2012 chưa được xóa án tích, bị cáo phạm tội nhiều lần, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp và thuộc trường hợp tái phạm . Tòa án sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo 18 năm tù là cần thiết và đúng pháp luật, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới; do đó không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2.2.2] Đối với bị cáo Nguyễn Văn L giúp sức cho các bị cáo trộm cắp 02 xe mô tô có tổng giá trị 195.000.000 đồng, phạm tội thuộc khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015; ngoài ra, bị cáo Nguyễn Văn L còn tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có với tổng số tiền 295.000.000 đồng phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 323 BLHS năm 2015; bị cáo phạm tội nhiều lần và thuộc trường hợp tái phạm. Tòa án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo mức án 5 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 3 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tổng hợp cả hai tội 8 năm tù là không nặng và đúng pháp luật; bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới khác; do đó không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Các phần khác của Bản án hình sự sơ thẩm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Đặng Quang T không phải chịu, các bị cáo Lưu Văn Đ, Nguyễn Văn L phải chịu 200.000,(Hai trăm ngàn) đồng, theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 348, điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Đặng Quang T, Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2021/HSST ngày 28-5-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với bị cáo Đặng Quang T có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 28/9/2021).

2. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lưu Văn Đ, Nguyễn Văn L và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2021/HS-ST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐắkLắk.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, b, g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015(Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lưu Văn Điệp 18 (mười tám) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/10/2019.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm c khoản 2 Điều 323; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 05 (năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 03 (ba) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt hai tội, buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chấp hành hình phạt chung là 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam ngày 29/10/2019.

3. Các Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2021/HS-ST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về trách nhiệm bồi thường, về xử lý vật chứng, về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Lưu Văn Đ, Nguyễn Văn L mỗi bị cáo phải chịu 200.000, đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Bị cáo Đặng Quang T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 378/2021/HS-PT

Số hiệu:378/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về