Bản án về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 270/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HN

BẢN ÁN 270/2021/HS-PT NGÀY 14/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 14/04/2021 tại trụ sở Tòa án, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 981/2020/TLPT – HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Ngô Văn Tr, Hà Phú L và Nguyễn Thị Ng do có kháng cáo của các bị cáo.

Đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2020/HS-ST ngày 08 tháng 06 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện QO, thành phố HN.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2021/QĐXXPT-HS ngày 05 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo có kháng cáo:

Bị cáo:

1./ Ngô Văn Tr, sinh ngày 25/4/2003;

Nơi ĐKTT và chỗ ở: Thôn 5, xã PC, huyện QO, thành phố HN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12;

Con ông: Ngô Văn Th1, sinh năm 1969 và con bà: Lê Thị T2, sinh năm 1969 Tiền án, tiền sự: Không Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Đại diện hợp pháp của bị cáo: bà Lê Thị T2 (mẹ đẻ bị cáo) có mặt Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư chỉ định Nguyễn Thanh T3 Công ty Luật TNHH Bảo Thiên – Đoàn Luật sư thành phố HN. có mặt.

2./ Hà Phú L, sinh ngày 08/7/2001 Nơi ĐKTT và chỗ ở: Thôn 5, xã PC, huyện QO, thành phố HN; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12;

Con ông: Hà Văn V, sinh năm 1975 và con bà: Hoàng Thị Ng, sinh năm 1980 Tiền án, tiền sự: Không Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

3./ Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1979;

Nơi ĐKTT và chỗ ở: Thôn Muôn, xã TN, huyện QO, thành phố HN;

nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; con ông: Nguyễn Văn D, sinh năm 1952 và con bà: Đỗ Thị K, sinh năm 1954; có chồng là: Nguyễn Văn L, sinh năm 1976 và có 02 con (con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2002).

Tiền án, tiền sự: Không Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Giang Hồng Th3, Văn phòng Luật sư Giang Thanh – Đoàn luật sư thành phố HN.

Bị hại:

1./ Bà Ngô Thị Ng1, sinh năm 1968; nơi cư trú: Thôn HL, xã A, huyện QP, tỉnh TB; hiện trú tại: Thôn 5, xã PC, huyện QO, thành phố HN (là người giúp việc cho gia đình Ngô Thị Bảy); (Vắng mặt).

2./ Anh Ngô Văn C, sinh năm 1995; trú tại: Thôn 5, xã PC, huyện QO, thành phố HN; (Vắng mặt).

3./ Chị Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1980; trú tại: Thôn 5, xã PC, huyện QO, thành phố HN; (Có mặt).

4./ Ban quản lý dự án NH.09 – Ngân hàng nhà nước Việt Nam (Nhà máy in tiền); địa chỉ: Thôn 5, xã PC, huyện QO;

Người đại diện theo ủy quyền là ông Trịnh Đình Q– Trưởng phòng bảo vệ BQL dự án NH09. (Vắng mặt có lý do).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Phí Đức Th4, sinh năm 1988; trú tại: xã Đ, huyện Thạch Thất, HN (làm chủ cửa hàng điện thoại); (Vắng mặt).

2. Bà Vương Thị L1, trú tại: Thôn 5, xã PC, huyện QO, thành phố HN (liên quan bánh kẹo, nước ngọt); (Vắng mặt).

3. Anh Nguyễn Đức T4, sinh năm 1983; trú tại: Thôn B, xã H, huyện QO; thành phố HN; (Vắng mặt).

4. Anh Nguyễn Văn H4, sinh năm 1974; trú tại: Thôn 6, xã PC, huyện QO, thành phố HN; (Vắng mặt).

5. Anh Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1974; trú tại: Thôn Quảng Yên, xã Yên Sơn, huyện QO (thu mua sắt vụn); (Vắng mặt).

6. Bà Lê Thị T2, sinh năm 1969; trú tại: Thôn 5, xã PC, huyện QO, thành phố HN (mẹ đẻ bị cáo Trọng); (Có mặt).

7. Chị Ngô Thị Thúy, sinh năm 1983; trú tại: Thôn 6, xã PC, huyện QO (mẹ đẻ của Nguyễn Văn N); (Có mặt).

8. Nguyễn Văn N, sinh 13/9/2003 (dưới 16 tuổi), người đại diện hợp pháp cho Nam là bà Ngô Thị Thúy (mẹ đẻ); đều trú tại: Thôn 6, xã PC, huyện QO; (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 19/9/2019, Công an huyện QO, thành phố HN nhận được tin báo của Công an xã PC về việc tại gia đình chị Ngô Thị Bảy, sinh năm 1982, ở thôn 5, xã PC, huyện QO bị kẻ gian trèo tường đột nhập vào nhà trộm cắp 01 điện thoại nhãn hiệu VIVO của chị Ngô Thị Ng1 (là người giúp việc cho gia đình). Quá trình điều tra xác định được đối tượng Ngô Văn Tr, sinh ngày 25/4/2003, và Hà Phú L, sinh ngày 08/7/2001, đều trú tại: xã PC, huyện QO là những đối tượng trộm cắp tài sản. Nội dung vụ án như sau:

Khoảng 7h ngày 19/9/2019, Ngô Văn Tr và Hà Phú Lbàn bạc đột nhập vào nhà chị Ngô Thị Bảy để trộm cắp tài sản, khi đi Lưu mang theo 01 kìm cắt dây điện, đến nhà chị Bảy cả hai cùng trèo qua tường bao vào sân sau nhà, Lưu dùng kìm cắt 3 dây camera ở khu vực lối đường hầm vào nhà chị Bảy mục đích để trộm cắp tài sản không bị phát hiện. Sau đó Trọng và Lưu đi cầu thang lên tầng 2, nhìn qua cửa sổ vào phòng ngủ của bà Ngọt, phát hiện tại bàn kệ gần đầu giường có 01 chiếc điện thoại VIVO, Trọng trèo qua cửa sổ vào trong lấy chiếc điện thoại đút vào túi quần, còn Lưu đứng ngoài canh gác. Sau đó Lưu và Trọng cùng đi xuống sân sau, khi ra đến sân sau Lưu bỏ lại chiếc kìm vừa dùng vào việc cắt dây camera ở hành lang tầng hầm rồi cả hai trèo tường tẩu thoát ra ngoài. Ngày 20/9/2019, Trọng đưa chiếc điện thoại trộm cắp được cho Lưu mang đến cửa hàng mua bán điện thoại “Tâm Trang” do anh Phí Đức Th4, sinh năm 1988, ở xã Đồng Trúc, huyện Thạch Thất, HN (làm chủ) bán được 300.000 đồng. Số tiền bán điện thoại Lưu chia cho Trọng 100.000 đồng, Lưu được 200.000 đồng. Ngày 23/09/2019 anh Thuần đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại VIVO cho Cơ quan điều tra. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận chiếc điện thoại có trị giá 700.000 đồng.

Quá trình điều tra, khai thác mở rộng vụ án Ngô Văn Tr, Hà Phú Lcòn khai nhận cùng Nguyễn Văn N, sinh ngày 13/09/2003, trú tại: Thôn 6, xã PC, huyện QO, thành phố HN gây ra 02 vụ trộm cắp điện thoại khác và trộm cắp một số cột trụ gang, dây xích sắt của Nhà máy in tiền đang xây dựng trên địa bàn xã PC, huyện QO. Cụ thể như sau:

- Vụ trộm điện thoại thứ nhất: Ngày 8/9/2019, Trọng cùng Lưu trèo tường vào nhà bà Vương Thị L1 ở thôn 5, xã PC. Lưu trực tiếp trộm cắp 01 điện thoại Iphone 7 plus màu đen của anh Ngô Văn Chung, sinh năm 1995 (là con trai bà Lê) để ở tại đầu giường ngủ phòng khách và một số bánh kẹo, nước ngọt và 1 túi xách bên trong có 1 số giấy tờ ở tại quán bán hàng tạp hóa của bà Lê. Sau khi trộm cắp được điện thoại Trọng, Lưu đã mang đến của hàng mua bán điện thoại của anh Nguyễn Đức T4, sinh năm 1983, ở thôn Bạch Thạch, xã Hòa Thạch, huyện QO bán được 1.000.000 đồng. Số tiền bán điện thoại Trọng, Lưu chia nhau mỗi người được 500.000 đồng. Sau đó anh Toàn đã bán lại chiếc điện thoại trên cho một người nam giới không quen biết được 2.800.000 đồng (chiếc điện thoại không thu hồi được); còn số tài sản bánh kẹo, nước ngọt và túi xách chị Lê không xác định được số lượng bị mất, giá trị cụ thể và không có yêu cầu bồi thường gì. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận chiếc điện thoại có trị giá 5.750.000 đồng.

- Vụ trộm điện thoại thứ hai: Khoảng 18h ngày 04/9/2019, Lưu một mình đột nhập vào nhà chị Nguyễn Thị Ngở thôn 5, xã PC, huyện QO không thấy có ai ở nhà và phát hiện chiếc điện thoại OPPO Neo 7 màu trắng của chị Ng đang xạc pin để ở ghế, Lưu đã trộm cắp chiếc điện thoại rồi đi ra ngoài tẩu thoát. Sau khi trộm được chiếc điện thoại Lưu gặp Trọng và cùng nhau mang bán cho anh Nguyễn Văn H4, sinh năm 1974 ở thôn 6, xã PC được 150.000 đồng, Trọng, Lưu chia nhau mỗi người được 75.000 đồng. Ngày 23/09/2019 anh Hòa đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại OPPO Neo 7 cho Cơ quan điều tra. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận chiếc điện thoại có trị giá 567.000 đồng.

- Các vụ trộm cắp một số cột trụ gang, dây xích sắt của Nhà máy in tiền:

Trong khoảng từ đầu tháng 7/2019 đến cuối tháng 7/2019, Ngô Văn Tr và Nguyễn Văn N đã đã đột nhập vào bên trong nhà máy in tiền dùng mỏ lết mang theo tháo các ốc vít nối cột trụ gang với chân cột dùng trang trí quanh bờ suối, Trọng và Nam trộm cắp khoảng hơn 20 lần, được tổng số 40 cột trụ gang và 40 dây xích kèm theo. Quá trình trộm cắp tài sản Trọng dùng mỏ lết của gia đình, Nam dùng xe máy điện của gia đình Nam để vận chuyển, số cột trụ gang sau khi trộm cắp được mà có. Nam và Trọng khai báo do không xác định được cụ thể chính xác, ngày chúng chỉ nhớ đều trộm cắp vào các buổi trưa trong tháng 7/2019. Cụ thể như sau:

+ Lần thứ nhất: Vào khoảng buổi trưa một ngày đầu tháng 7/2019 Trọng, Nam trèo qua tường rào vào bên trong nhà máy, dùng mỏ lết mang theo tháo trộm được 01 chiếc trụ gang có dây xích kèm theo và dùng xe máy điện chở đến điểm thu mua phế liệu của Nguyễn Thị Ngở thôn 6, xã PC, huyện QO bán cho Ng với giá 250.000 đồng.

+ Lần thứ hai: Sau lần thứ nhất khoảng 2 ngày Trọng và Nam tiếp tục trèo và nhà máy trộm được 01 trụ gang có dây xích và mang đến bán cho Ng được 250.000 đồng, lần này Ng hỏi về nguồn gốc tài sản thì được Trọng và Nam nói nguồn gốc tài sản là do trộm cắp được mà có, nhưng Ng vẫn mua.

+ Tiếp theo những lần trộm cắp cột trụ gang, dây xích cũng ở tại nhà máy in tiền kể trên Trọng và Nam cũng như Ng đều khai nhận không nhớ chính xác ngày, chỉ nhớ sau 1 đến 2 ngày: Có lần Trọng và Nam, sau khi trộm được 4 chiếc cột trụ gang do trọng lượng nặng, Nam và Trọng có đến gặp và mượn của Ng chiếc xe cải tiến, khi mượn chúng nói là đi chở đồ chứ không nói rõ dùng vào việc trộm cắp tài sản, sau khi mượn được xe cải tiến chúng đã chở số tài sản là cột trụ gang do trộm cắp ở nhà máy in tiền về bán cho Ng. Quá trình điều tra Nam, Trọng còn khai nhận 4 lần tự lấy xe cải tiến của Ng dùng vào việc chuyên chở số cột trụ gang trộm cắp được mỗi lần 4 chiếc, ngoài ra dùng xe máy điện và xe máy chở từ 1 đến 2 trụ gang đến bán cho Ng. Tổng số lần chúng trộm cắp được và bán cho Ng là 30 chiếc cột trụ gang + dây xích sắt đều với giá 250.000 đồng/01 cột trụ gang, số tài sản này Ng đều biết do Trọng và Nam phạm tội trộm cắp được mà có.

Ngoài ra Trọng và Nam còn khai nhận trộm một số lần khác các cột trụ gang của nhà máy in tiền bán cho Nguyễn Văn Lục là chồng của Ng 5 lần tổng số 7 cột trụ gang và Vũ Văn Cường là con rể của Ng 3 lần tổng số 3 cột trụ gang với giá từ 210.000 đồng đến 250.000 đồng (cụ thể số tiền không nhớ rõ), quá trình mua bán Lục và Cường không hỏi và cũng không biết nguồn gốc số tài sản Nam và Trọng bán cho mình là tài sản trộm cắp được mà có, Lục và Cường chỉ là người nhận mua cột trụ gang khi Ng đang bận bảo Lục, Cường nhận trụ cột gang và Ng là người trả tiền cho Nam và Trọng. Tổng số 40 cột trụ gang kèm theo 40 dây xích sắt Trọng và Nam đã bán cho Ng, Lục, Cường được khoảng 9.640.000 đồng, số tiền này Trọng, Nam chia đôi mỗi người được hưởng 4.820.000 đồng. Toàn bộ 40 cột trụ gang, kèm theo 40 dây xích sắt, sau đó Ng đã bán lại cho Anh Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1974, ở thôn Quảng Yên, xã Yên Sơn, huyện QO (cũng là người thu mua phế liệu) được số tiền là 12.240.000 đồng, quá trình mua bán Khánh không biết nguồn gốc số trụ gang này là do Ng mua của người khác trộm cắp mà (tài sản không thu hồi được); Ng thu lợi được 2.600.000 đồng. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: 01 cột trụ gang có trị giá 2.286.827 đồng; 01 mét dây xích sắt có trị giá 40.924 đồng/m.

Ngoài trộm cắp cùng Nguyễn Văn N các vụ nêu trên, Ngô Văn Tr còn 02 lần cùng Hà Phú Ltrộm cắp 04 trụ gang tại nhà máy in tiền vào đầu tháng 8/2019. Cụ thể như sau:

+ Lần thứ nhất: Trưa ngày 07/8/2019 Trọng, Lưu trèo vào bên trong nhà máy dùng mỏ lết mang theo tháo ốc vít trộm cắp được 02 cột trụ gang, không có dây xích sắt, sau khi trộm được chúng mang ra ngoài hàng rào nhà máy, nhưng không có phương tiện để chở, chúng đã bỏ lại. Ngày hôm sau cả hai quay lại để lấy thì không thấy các cột trụ gang này (do anh Nguyễn Duy Giang bảo vệ nhà máy đi tuần phát hiện được và đã thu giữ).

+ Lần thứ hai: Trưa ngày 09/8/2019 Trọng, Lưu tiếp tục trèo vào bên trong nhà máy in tiền dùng mỏ lết tháo ốc vít lấy trộm được 02 cột trụ gang, không có dây xích sắt. Khi Trọng, Lưu khiêng ra ngoài thì bị anh Trần Xuân Hảo và anh Lê Quốc Quân bảo vệ nhà máy đi tuần phát hiện, nên chúng bỏ lại cột trụ gang và chạy thoát.

* Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động VIVO Y55, do anh Phí Đức Th4 tự nguyện giao nộp; 01 điện thoại di động OPPO Neo 7, do anh Nguyễn Văn H4 tự nguyện giao nộp; 01 kìm cắt dây điện có tay cầm bọc nhựa màu vàng, thu giữ ở góc sân phía sau nhà chị Ngô Thị Bảy; tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Số tiền 2.600.000 đồng do bị cáo Nguyễn Thị Nggiao nộp và số tiền 30.000.000 đồng, do chị Lê Thị T2 (mẹ đẻ của bị cáo Trọng) và chị Ngô Thị Thúy (mẹ đẻ của Nguyễn Văn N) giao nộp khắc phục hậu quả.

* Tại Kết luận định giá tài sản số 48/KL- HĐĐGTS ngày 30/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện QO. Kết luận: Chiếc điện thoại VIVO Y55 màu vàng đồng có trị giá 700.000 đồng; Chiếc điện thoại OPPO Neo 7 A33 màu trắng có trị giá 567.000 đồng; Chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu đen có trị giá 5.750.000 đồng.

* Tại Kết luận định giá tài sản số 55/KL- HĐĐGTS ngày 10/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện QO. Kết luận: 44 trụ gang đúc, sơn màu xanh, mỗi trụ có kích thước cao 85 cm có trị giá là 100.620.388 đồng; 40 dây xích sắt sơn màu xanh, mỗi dây dài khoảng 2,2m có trị giá là 3.601.312 đồng.

* Về trách nhiệm dân sự:

- Ngày 13/02/2020, Cơ quan điều tra có Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 điện thoại di động VIVO Y55 cho chị Ngô Thị Ng1; trả lại 01 điện thoại di động OPPO Neo 7 cho chị Nguyễn Thị Ng. Sau khi nhận lại tài sản chị Ngọt, Ng không yêu cầu, đề nghị các bị cáo phải bồi thường dân sự gì.

- Đối với chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu đen của anh Ngô Văn Chung (tài sản không thu hồi được) đại diện gia đình 02 bị cáo Trọng, Lưu đã tự thỏa thuận bồi thường với anh Chung, anh Chung không có yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì.

- Đối với số bánh kẹo, nước ngọt, sữa, túi xách mà bị cáo Trọng, Lưu trộm cắp của chị Vương Thị L1, chị Lê không xác định được số lượng bao nhiêu và chị Lê cũng không có yêu cầu các bị cáo phải bồi thường dân sự.

- Đối với anh Phí Đức Th4 đã mua chiếc điện thoại VIVO của Trọng, Lưu với giá 300.000 đồng; anh Nguyễn Văn H4 đã mua chiếc điện thoại OPPO của Trọng, Lưu với giá 150.000 đồng. Sau đó anh Thuần, Hòa đã tự nguyện nộp lại tang vật cho Cơ quan điều tra để trả người bị hại. Nay anh Thuần, Hòa không có yêu cầu các bị cáo phải bồi thường trả số tiền này.

- Đối với 40 cột trụ gang và 40 dây xích sắt (tài sản không thu hồi được), anh Trịnh Đình Qđại diện Nhà máy in tiền có yêu cầu các đối tượng phải bồi thường 40 cột = 91.473.080 đồng; 40 dây xích = 3.601.312 đồng. Tổng cộng là:

95.074.392 đồng. Đại diện gia đình bị cáo Ngô Văn Tr và đối tượng Nguyễn Văn N đã tự nguyện nộp khắc phục bồi thường mỗi đối tượng tượng là 15.000.000 đồng = 30.000.000 đồng. Đối với 04 cột trụ gang mà bị cáo Trọng, Lưu trộm cắp đã thu hồi được, đại diện Nhà máy không có yêu cầu đề nghị bồi thường gì.

Quá trình điều tra vụ án bị cáo Ngô Văn Tr; Hà Phú Lvà Nguyễn Thị Ngđã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của đối tượng Nguyễn Văn N, lời khai người bị hại, người liên quan, nguyên đơn dân sự, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSQO ngày 10/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện QO truy tố các bị cáo:

Ngô Văn Tr đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản, thuộc trường hợp “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Hà Phú Lđã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Nguyễn Thị Ngđã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà ” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2020/HS-ST ngày 08 tháng 06 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện QO, thành phố HN đã xử bị cáo Ngô Văn Tr 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Bị cáo Hà Phú L15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành Bị cáo Nguyễn Thị Ng08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý tang vật, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trọng, Lưu và Ng có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Trọng, Lưu, Ng vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thừa nhận các hành vi phạm tội do mình thực hiện đúng như bản án sơ thẩm đã xét xử, không thắc mắc kêu oan chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trọng: không có ý kiến về tội danh và điều luật. Đối với mức án tòa án sơ thẩm đã tuyên là quá nghiêm khắc. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo chưa có tiền án tiền sự, khi phạm tội mới 16 tuổi 3 tháng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khắc phục một phần hậu quả. nhận thức pháp luật kém là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b,s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Ng có quan điểm: việc Viện kiểm sát tại phiên tòa cho rằng bị cáo phạm tội thuộc trường hợp từ hai lần trở lên nên không được hưởng tình tiết phạm tội lần đầu là không phù hợp quy định điểm i khoản 1 điều 51Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã tự nguyện giao nộp tài sản khắc phục hậu quả nên đề gnhij được hưởng thêm điểm b khoản 1 điều 51 BLHS. Với 3 tình tiết giảm nhẹ đè nghị Hội đồng xét xử xem xét bịc áo có hoàn cảnh khó khăn giảm nhẹ cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố HN phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Trọng, Lưu, Ng nộp trong thời hạn Luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trọng, Lưu, Ng theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Căn cứ lời khai bị cáo tại phiên tòa đủ cơ sở kết luận bị cáo Trọng và bị cáo Lưu phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 và bị cáo Ng phạm tội “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 như bản án sơ thẩm đã xử là đúng người đúng tội.

Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Nhân thân chưa có tiền án tiền sự. Trọng phạm tội khi chưa thành niên và không bị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần do tổng số tiền trộm cắp cấu thành định khung khaonr 2 điều 173 Bộ luật Hình sự. Lưu và Nguyện có tính tiết tăng nặng phạm tội từ hai lần trở lên nên không được hưởng tình tiết phạm tội lần đầu theo điểm i khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự. Chỉ có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trọng và Lưu, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ng Đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trọng, Lưu và xử phạt Bị cáo Trọng: từ 24 đến 27 tháng tù; bị cáo Lưu: từ 12 đến 13 tháng tù; bị cáo Ng: 08 tháng tù.

Các quyết dịnh khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị giữ nguyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức:

Đơn kháng cáo của bị cáo Trọng, Lưu và Ng nộp trong thời hạn Luật định nên hợp lệ, được chấp nhận xem xét, giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, cũng như tại phiên toà phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 07 giờ ngày 19/9/2019, Ngô Văn Tr và Hà Phú Lđã đột nhập vào nhà chị Ngô Thị Bảy ở thôn 5, xã PC, huyện QO trộm cắp 01 chiếc điện thoại VIVO Y55 của chị Ngô Thị Ng1 (người giúp việc của gia đình chị Bảy), tài sản có trị giá:

700.000 đồng. Quá trình điều tra, khai thác mở rộng vụ án Trọng và Lưu còn khai nhận cùng đối tượng Nguyễn Văn N gây ra 02 vụ trộm cắp điện thoại khác và trộm cắp một số cột trụ gang, dây xích sắt của Nhà máy in tiền đang xây dựng trên địa bàn xã PC, huyện QO. Cụ thể: Bị cáo Trọng, Lưu cùng trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 7 plus của anh Nguyễn Văn Chung có trị giá 5.750.000 đồng; bị cáo Lưu một mình trộm cắp 01 chiếc điện thoại OPPO Neo 7 của chị Nguyễn Thị Ngcó trị giá 567.000 đồng; bị cáo Trọng, Lưu cùng nhau trộm cắp 04 cột trụ gang của Nhà máy in tiền (tài sản được thu hồi); bị cáo Trọng và đối tượng Nguyễn Văn N (dưới 16 tuổi) cùng nhau trộm cắp 40 cột trụ gang và 40 dây xích sắt mang bán cho bị cáo Nguyễn Thị Ng. Tổng số tài sản 44 trụ gang có trị giá là 100.620.388 đồng; 40 dây xích sắt có trị giá là 3.601.312 đồng.

Như vậy, tổng trị giá tài sản bị cáo Ngô Văn Tr chiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là 110.671.700 đồng.

Tổng trị giá tài sản bị cáo Hà Phú Lchiếm đoạt phải chịu trách nhiệm hình sự là 16.164.308 đồng.

Đối với Nguyễn Thị Ngđã tiêu thụ 40 cột trụ gang và 40 dây xích sắt do Ngô Văn Tr, Nguyễn Văn N trộm cắp tổng giá trị tài sản là 95.074.392 đồng, hưởng lợi bất chính số tiền 2.600.000 đồng, Hành vi của bị cáo Ngô Văn Tr đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173; Hà Phú Lđã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và Nguyễn Thị Ngđã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự năm 2015 như Toà án cấp sơ thẩm nhận định là phù hợp.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an trong khu vực, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần có mức hình phạt tù có thời hạn thích hợp đối với các bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung như Toà án cấp sơ thẩm nhận định là phù hợp.

- Về tình tiết tăng nặng: Hà Phú Lvà Nguyễn Thị Ngđều phạm tội từ hai lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự như Tòa án sơ thẩm nhận định là hoàn toàn phù hợp, riêng đối với bị cáo Ngô Văn Tr thì tổng số tiền bị cáo trộm cắp đã được tổng hợp cấu thành định khung khoản 2 điều luật 173 các lần trộm cắp khác chưa đủ mức cấu thành tội phạm khoản 1 nên không phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội từ hai lần trở lên như cấp sơ thẩm đã nhận định - Tình tiết giảm nhẹ:

Đối với Ngô Văn Tr; chưa có tiền án tiền sự, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, khắc phục một phần hậu quả vụ án, người bị hại xin giảm nhẹ cho các bị cáo và phạm tội khi chưa thành niên (mới 16 tuổi 05 tháng) là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b,s khoản 1 và khoản 2 điều 51 và áp dụng thêm Điều 91 Bộ luật Hình sự.

Hà Phú Lthì quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã khắc phục một phần hậu quả vụ án, người bị hại xin giảm nhẹ cho các bị cáo theo quy định tại điểm b,I,s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Đối với Nguyễn Thị Ng, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã tự nguyện sửa chữa khắc phục một phần hậu quả; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự như Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng là hoàn toàn phù hợp.

Xét mức hình phạt Tòa án sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo là có phần nghiêm khắc nên HĐXX chấp nhận kháng cáo của các bị cáo giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho các bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp nên không phạt tiền bị cáo.

Bởi các phân tích trên, hội đồng xét xử thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của Ngô Văn Tr; Hà Phú Lvà nguyễn Thị Ng; do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Ngô Văn Tr; Hà Phú Lvà Nguyễn Thị Ngkhông phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo qui định.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự .

Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Xử:

I./ Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Ngô Văn Tr; Hà Phú Lvà nguyễn Thị Ng.

II./ Sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 27/2020/HS-ST ngày 08 tháng 06 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện QO, thành phố HN;

Tuyên bố bị cáo Ngô Văn Tr và Hà Phú Lphạm tội “Trộm cắp tài sản”; Nguyễn Thị Ng phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

1./ Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Ngô Văn Tr 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành hình phạt tù .

-Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Hà Phú L12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành hình phạt tù.

-Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự ;

Xử phạt: Nguyễn Thị Ng06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt chấp hành hình phạt tù.

III. Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

IV. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 14/04/2021

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 270/2021/HS-PT

Số hiệu:270/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về