Bản án về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy số 55/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THỦY, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 55/2023/HS-ST NGÀY 05/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 05 tháng 7 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 337/2023/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn B, sinh ngày: 11/12/2000 tại Cần Thơ. Nơi cư trú: Khu vực 1, phường Q, quận Q, thành phố Cần Thơ; Chỗ ở: Phòng số 23, nhà nghỉ W, số 68/8 Lê 3, khu vực 6, phường Z, quận J, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;  con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị N (c); bị cáo chưa có vợ con; tiền án: vào ngày 29/8/2018 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 28/7/2022; tiền sự: vào ngày 07/12/2022 bị Công an phường Bùi Hữu N, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Về nhân thân: vào ngày 17/4/2017 bị Công an phường An Cư, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; vào ngày 24/4/2017 bị Công an phường An Hòa, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi đánh nhau; vào ngày 25/4/2017 bị Công an phường Thới Bình, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; vào ngày 30/11/2017 bị Công an phường An Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; vào ngày 07/6/2018 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/3/2023 cho đến nay. (có mặt).

2. Hồ Hoàng H, sinh ngày: 03/02/2006 tại Cần Thơ. Nơi cư trú: không có nơi đăng ký thường trú; Chỗ ở: Phòng số 23, nhà nghỉ W, số 68/8 , khu vực 6, phường Z, quận J, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 02/12 (biết đọc, không biết viết); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Hoàng M và bà Dương Thị T; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/3/2023 cho đến nay. (có mặt).

* Người đại diện cho bị cáo Hồ Hoàng H:

Dương Thị T, sinh năm: 1988 (mẹ của bị cáo H – có mặt) Trú tại: Số 268/12 , phường F, quận V, thành phố Cần Thơ.

* Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Hồ Hoàng H: Ông Lưu Ngọc Sĩ – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Cần Thơ. (có mặt)

* Người bị hại:

- Bà Nguyễn Thị K, sinh năm: 1989 (vắng mặt) Trú tại: Số 200B, tổ 8, khu vực B, phường C, quận J, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 31/3/2023, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ kết hợp với Công an phường Trà Nóc tiến hành khám xét khẩn cấp tại phòng số 23, nhà nghỉ W, số 68/8, khu vực 6, phường X, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ phát hiện Nguyễn Văn B và Hồ Hoàng H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon không màu, hàn kín, chứa tinh thể không màu; 01 quẹt gas đã qua sử dụng; 01 bình hút tự chế bằng thủy tinh có gắng ống hút và nỏ thủy tinh; 01 cây kéo bằng kim loại; 01 chai gas, 01 lưỡi lam đã qua sử dụng; 01 biển kiểm soát xe số 68P1-405.xx; 01 xe mô tô biển kiểm soát 65D1-231.xx; 01 cây kìm đầu bằng kim loại, cán nhựa màu xanh đã qua sử dụng; 01 ổ khóa bằng kim loại và số tiền 350.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số: 109/KL-KTHS ngày 07/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ kết luận: Tinh thể không màu trong gói nilon gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,2266gam.

Tại bản kết luận giám định độ tuổi trên người sống số: 170/KLGĐ-TTPYTC ngày 06/4/2023 của Trung tâm pháp y thành phố Cần Thơ kết luận: Hồ Hoàng H có độ tuổi từ 17 năm 03 tháng đến 17 năm 09 tháng (tại thời điểm giám định ngày 05/4/2023).

Quá trình điều tra còn xác định Nguyễn Văn B và Hồ Hoàng H đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản là xe mô tô biển kiểm soát 68P1-405.xx của bà Nguyễn Thị K tại địa chỉ số 200B Tô Vĩnh Diện, tổ 8, khu vực Bình Thường B, phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Đến ngày 04/4/2023, qua công tác tuần tra trên địa bàn, Công an phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ đã phát hiện 01 chiếc xe có đặc điểm giống với xe đã bị mất trộm của bà Nguyễn Thị K nên đã thu giữ.

Quá trình điều tra đã chứng minh được vào khoảng 03 giờ ngày 31/3/2023, Nguyễn Văn B và Hồ Hoàng H đang thuê nhà nghĩ W thì Bình rủ H đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài thì H đồng ý. Bình điều khiển xe mô tô biển số 65D1-231.xx chở H đi tìm tài sản; khi đến nhà số 200B Tô Vĩnh Diện, tổ 8, khu vực Bình Thường B, phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ thì phát hiện xe mô tô biển số 68P1-405.xx đậu ngoài sân không người trông coi nên Bình dừng xe, dùng kìm kim loại có cán màu xanh để nại – cắt ổ khóa cửa rào, xong Bình kêu H đi vào dẫn xe ra nhưng do không có chìa khóa xe nên H lên xe mô tô biển kiểm soát 68P1- 504.34 để Bình điều khiển xe biển kiểm soát 65D1-231.xx kè đẩy H về lại nhà nghỉ W. Về đến nơi, Bình tháo biển số xe mô tô biển kiểm soát 68P1-504.34 và để tại phòng trọ. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, Bình chở H đến hẻm Lò Nhôm, phường An Hòa, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ gặp 01 người đàn ông (chưa rõ họ tên, địa chỉ) để bán xe lấy trộm được và cùng nhau quay trở lại nhà nghỉ W để xem xe, xong người đàn ông đi về. Đến khoảng 13 giờ, Bình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 65D1-231.xx kè đẩy H điều khiển xe trộm được xuống khu vực Xóm Chài rồi đi tiếp đến cầu Cái Đôi thuộc phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ gặp người đàn ông đã xem xe rồi cùng nhau qua khu vực hồ Xáng Thổi thuộc phường An Cư, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Sau đó, người đàn ông đi đâu không rõ, một lúc sau quay lại trả trước cho Bình số tiền 1.000.000 đồng rồi nhận xe và hứa khi nào bán được xe thì đưa thêm tiền.

Sau khi nhận được tiền bán xe, Bình và H quay lại nhà nghỉ W, Bình đi ra ngoài rồi đi vào tiệm internet liên hệ qua messenger facebook với một người thanh niên có tên Phong Phú để hỏi mua 300.000 đồng ma túy và hẹn địa điểm giao nhận ma túy tại nhà nghỉ Phú Mỹ thuộc phường Thới Bình, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ; Bình quay về lại nhà nghỉ đưa cho H 300.000 đồng, kêu H đến điểm hẹn để nhận ma túy; H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 65D1-231.xx đến nơi hẹn với người tên Phong Phú để nhận ma túy đem về nhà nghỉ cùng nhau sử dụng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 15/KL-HĐĐGTS của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ kết luận: xe mô tô biển kiểm soát 68P1-405.xx có giá trị 14.000.000 đồng.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 65D1-231.xx qua xác minh là của bà Nguyễn Thúy An cho ông Nguyễn Trần Trường Giang mượn, ông Giang cho Nguyễn Văn B mượn lại nhưng không biết Bình sử dụng vào mục đích phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy đã giải quyết trả lại xe cho bà Nguyễn Thúy An.

Đối với người đàn ông nhận mua xe và người đàn ông tên Phong Phú, do không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy tiếp tục xác minh, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Thanh đã nhận lại xe mô tô biển kiểm soát 68P1-405.xx và không có yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số: 58/CT-VKSBT ngày 07 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ đã truy tố Nguyễn Văn B và Hồ Hoàng H về tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn B và bị cáo Hồ Hoàng H thừa nhận hành vi phạm tội; thống nhất với kết luận giám định, kết luận định giá và nội dung bản cáo trạng đã truy tố; cáo trạng đã truy tố là đúng với hành vi phạm tội của hai bị cáo, cụ thể: Bị cáo Nguyễn Văn B và Hồ Hoàng H thừa nhận, hai bị cáo có mối quan hệ quen biết và cùng thuê phòng số 23, nhà nghỉ W, số 68/8 Lê Hồng Phong, khu vực 6, phường Trà Nóc, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ để ở. Do không có tiền tiêu xài, trả tiền nhà nghỉ và tiền mua ma túy sử dụng nên Bình rủ H đi tìm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Vào khoảng 03 giờ ngày 31/3/2023 Bình điều khiển xe mô tô biển số 65D1-231.xx chở H đi tìm tài sản và điều khiển xe vào con đường đối diện Bệnh viện nhi đồng thành phố Cần Thơ, đi được một đoạn thì Bình phát hiện nhà có hàng rào, có khóa cửa rào và có xe mô tô đậu ngoài sân nên Bình dừng xe lại, dùng kìm kim loại mang theo cắt, nại ổ khóa cổng rào, xong Bình kêu H vào dắt xe ra; do không có chìa khóa để khởi động xe nên H ngồi trên xe trộm được, Bình kè đẩy xe do H điều khiển về nhà trọ W tháo biển số kiểm soát cất giấu; đến khoảng 08 giờ, Bình chở H đến hẻm Lò Nhôm thuộc phường An Hòa, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ để tìm người bán xe trộm được. Bình, H cùng với người đàn ông mua xe quay về nhà nghỉ để xem xe rồi người đàn ông đi về. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Bình điều khiển xe mô tô biển số 65D1-231.xx kè đẩy xe trộm được do H điều khiển đến cầu Cái Đôi thuộc phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ bán xe cho người đàn ông đã xem xe và Bình nhận trước tiền bán xe với số tiền 1.000.000 đồng; Bình chở H về nhà nghỉ W, Bình liên hệ mua 300.000 đồng ma túy rồi đưa tiền H đi nhận ma túy về cùng nhau sử dụng thì bị kiểm tra phát hiện và thu giữ lượng ma túy còn lại cùng với các dụng cụ dùng để sử dụng ma túy, biển kiểm soát xe mô tô số 68P1-405.xx, cây kìm dùng để cắt bẻ khóa cửa rào và số tiền 350.000 đồng; bị cáo Bình trình bày số tiền 350.000 đồng là tiền cá nhân của bị cáo. Bị cáo Bình còn thừa nhận đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị Tòa án kết án. Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên xin xem xét giảm nhẹ hình phạt. Lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Văn B không trình bày và bị cáo Hồ Hoàng H xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người đại diện cho bị cáo Hồ Hoàng H trình bày: Bị cáo Hồ Hoàng H sinh ngày: 03/02/2006; do cha mẹ ly hôn, bị cáo thiếu tình thương của cha mẹ nên xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Hoàng H trình bày: Người bào chữa thống nhất với nội dung bản cáo trạng đã truy tố và điều luật áp dụng đối với bị cáo Hồ Hoàng H. Tuy nhiên, đề nghị xem xét hoàn cảnh, điều kiện phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ hình phạt đối với của bị cáo, cụ thể: Bị cáo Hồ Hoàng H đã thành khẩn khai báo ăn năn, hối cải; tích cực hợp tác trong quá trình điều tra; bị cáo phạm tội lần đầu, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ đã ly hôn lúc bị cáo còn nhỏ nên thiếu tình thương, chăm sóc của cha mẹ; bị cáo có trình độ văn hóa thấp, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, đã bị bị cáo Nguyễn Văn B rủ rê. Do đó, đề nghị áp dụng điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị xét xử bị cáo Hồ Hoàng H ở mức khởi điểm theo đề nghị của Kiểm sát viên cũng đủ để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Quan điểm của Kiểm sát viên: Bị cáo Nguyễn Văn B và bị cáo Hồ Hoàng H thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án và nội dung bản cáo trạng đã truy tố nên đề nghị giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn B và Hồ Hoàng H về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy; gây mất an ninh trật tự tại địa phương nên đề nghị áp dụng Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật hình sự đối với hai bị cáo. Trong vụ án có hai bị cáo cùng tham gia nhưng không có phân công vai trò cụ thể nên chỉ là đồng phạm giản đơn nên đề nghị áp dụng Điều 17 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với hai bị cáo và có xem xét mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của từng bị cáo, cụ thể:

Bị cáo Nguyễn Văn B đã có tiền án về tội “Cướp tài sản”; có tiền sự về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; có nhân thân xấu, đã bị kết án và nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong vụ án, bị cáo là người chủ động rủ rê bị cáo Hồ Hoàng H phạm tội khi bị cáo H chưa đủ 18 tuổi; bị cáo là người chủ động đi tìm tài sản để trộm cắp, trực tiếp cắt bẻ khóa, liên hệ tiêu thụ tài sản trộm và nhận tiền; trực tiếp liên hệ mua ma túy về sử dụng nên bị cáo có vai trò chính trong vụ án và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là cao hơn bị cáo Hồ Hoàng H. Đề nghị áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Bị cáo Hồ Hoàng H được bị cáo Nguyễn Văn B rủ rê phạm tội thì đồng ý và cùng với bị cáo Bình đi trộm cắp tài sản, đi tiêu thụ tài sản; sau khi bị cáo Bình đã liên hệ mua ma túy thì bị cáo là người đi nhận về cùng sử dụng nên cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Quá trình điều tra, hai bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho hai bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; riêng đối với bị cáo Hồ Hoàng H phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên đề nghị áp dụng thêm Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo Hồ Hoàng H từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt đối với hai bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Xe mô tô biển kiểm soát xe số 68P1-405.xx và xe mô tô biển kiểm soát 65D1-231.xx đã được giải quyết trả lại cho chủ sở hữu và không có yêu cầu các bị cáo bồi thường nên không đặt ra để giải quyết.

Về xử lý vật chứng: 01 gói niêm phong số: 109/KL-KTHS ngày 07/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ; 01 quẹt gas đã qua sử dụng; 01 bình hút tự chế bằng thủy tinh có gắng ống hút và nỏ thủy tinh; 01 cây kéo bằng kim loại; 01 chai gas đã qua sử dụng; 01 lưỡi lam đã qua sử dụng; 01 cây kìm bằng kim loại, cán nhựa màu xanh đã qua sử dụng; 01 ổ khóa bằng kim loại là các vật dụng dùng vào việc phạm tội thuộc loại nhà nước cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 350.000 đồng là tài sản do phạm tội mà có nên đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước. Do đó, đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng đã thu giữ.

Đối với người đàn ông nhận mua xe và người đàn ông tên Phong Phú, do không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy tiếp tục xác minh, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Quá trình điều tra đã tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho những người tham gia tố tụng. Các chứng cứ tại hồ sơ đủ để kết luận về hành vi phạm tội của hai bị cáo, cũng như để giải quyết các vấn đề khác có liên quan. Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Hoàng H và mẹ của bị cáo là bà Dương Thị T khẳng định bị cáo sinh ngày: 03/02/2006 là phù hợp với kết luận giám định về độ tuổi đối với bị cáo Hồ Hoàng H nên bị cáo Hồ Hoàng H đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

[1] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn B và bị cáo Hồ Hoàng H thống nhất với kết luận giám định, kết quả định giá và nội dung bản cáo trạng đã truy tố; hai bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Bị cáo Nguyễn Văn B và bị cáo Hồ Hoàng H thừa nhận có mối quan hệ quen biết, cùng nhau thuê nhà nghỉ W - số 68/8 Lê Hồng Phong, khu vực 6, phường Trà Nóc, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ để ở; bản thân hai bị cáo đều sử dụng trái pháp chất ma túy; do không có tiền trả tiền thuê nhà nghỉ, không có tiền mua ma túy sử dụng và không có tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo Nguyễn Văn B rủ bị cáo Hồ Hoàng H đi tìm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài được bị cáo Hồ Hoàng H đồng ý và cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Vào khoảng 03 giờ ngày 31/3/2023 bị cáo Hồ Văn B điều khiển xe mô tô biển số 65D1-231.xx chở bị cáo Hồ Hoàng H đi tìm tài sản và bị cáo Nguyễn Văn B điều khiển xe vào con đường đối diện Bệnh viện nhi đồng thành phố Cần Thơ đến nhà số 200B Tô Vĩnh Diện, tổ 8, khu vực Bình Thường B, phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ thì bị cáo Bình phát hiện nhà có cổng rào đã khoán nhưng có xe mô tô biển kiểm soát 68P1-405.xx đậu ngoài sân không người trông coi nên bị cáo Bình dừng xe, dùng kìm kim loại mang theo cắt, nại ổ khóa cổng rào, xong bị cáo Bình kêu bị cáo H vào dắt xe ra nhưng không khởi động được xe đã trộm do không có chìa khóa nên bị cáo H ngồi trên xe biển kiểm soát 68P1-405.xx, bị cáo Bình điều khiển xe 65D1-231.xx kè đẩy xe do bị cáo H điều khiển về nhà trọ W tháo biển số kiểm soát cất giấu; đến khoảng 08 giờ, bị cáo Bình chở bị cáo H đến hẻm Lò Nhôm thuộc phường An Hòa, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ để tìm người bán xe trộm được. Bị cáo Bình, bị cáo H cùng với người đàn ông nhận mua xe quay về nhà nghỉ để xem xe. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, bị cáo Bình điều khiển xe mô tô biển số 65D1-231.xx kè đẩy xe trộm được do bị cáo H điều khiển đến cầu Cái Đôi thuộc phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ bán xe cho người đàn ông đã xem xe và Bình nhận trước tiền bán xe với số tiền 1.000.000 đồng. Sau khi bán được xe, bị cáo Bình chở bị cáo H về nhà nghỉ W, bị cáo Bình liên hệ mua 300.000 đồng ma túy rồi đưa tiền cho bị cáo H đi nhận ma túy về cùng nhau sử dụng thì bị kiểm tra phát hiện và thu giữ lượng ma túy còn lại tại nơi ở cùng với các dụng cụ dùng để sử dụng ma túy, biển kiểm soát xe mô tô số 68P1-405.xx và cây kìm dùng để cắt bẻ khóa cửa rào.

Hành vi lén lút lấy trộm tài sản đã được định giá có giá trị 14.000.000 đồng và hành vi cất giấu ma túy tại nơi ở để sử dụng đã được giám định là ma túy loại Methamphetamine với khối lượng 0,2266gam mà hai bị cáo đã thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại 1 Điều 173 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị của Kiểm sát viên cũng như người bào chữa cho bị cáo Hồ Hoàng H.

[2]. Hành vi phạm tội của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy; gây mất an ninh trật tự tại địa phương; trong vụ án có hai bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có phân công vai trò cụ thể nên chỉ là đồng phạm giản đơn và có xem xét mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đối với từng bị cáo; Kiểm sát viên đề nghị áp dụng Điều 17, Điều 38, Điều 50 và Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với hai bị cáo là có căn cứ.

Xét về mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của từng bị cáo, cụ thể:

Bị cáo Nguyễn Văn B đã có tiền án về tội “Cướp tài sản”; có tiền sự về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; có nhân thân xấu, đã bị kết án và nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính. Trong vụ án, bị cáo là người chủ động rủ rê bị cáo Hồ Hoàng H phạm tội khi bị cáo H chưa đủ 18 tuổi; bị cáo là người điều khiển xe chở bị cáo H đi tìm tài sản để trộm cắp, trực tiếp cắt bẻ khóa, trực tiếp liên hệ để bán xe trộm cắp được và nhận tiền; trực tiếp liên hệ mua ma túy rồi kêu bị cáo H đi nhận về dể cùng nhau sử dụng nên bị cáo có vai trò chính trong vụ án và mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là cao hơn bị cáo Hồ Hoàng H là phù hợp. Kiểm sát viên đề nghị áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo Hồ Hoàng H chưa đủ 18 tuổi nhưng khi được bị cáo Nguyễn Văn B rủ rê phạm tội thì đồng ý và làm theo; bị cáo cùng với bị cáo Bình đi trộm cắp tài sản, cùng đi bán tài sản đã trộm cắp có được và đi nhận ma túy sau khi bị cáo Nguyễn Văn B đã liên hệ mua ma túy đem về cùng với bị cáo Bình sử dụng nên áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn B và bị cáo Hồ Hoàng H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với hai bị cáo. Riêng bị cáo Hồ Hoàng H phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ ly hôn nên thiếu sự chăm sóc giáo dục của cha mẹ, có trình độ văn hóa thấp nên áp dụng thêm khoản 2 Điều 51, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hồ Hoàng H là phù hợp. Người bào chữa cho bị cáo Hồ Hoàng H đề nghị áp dụng điểm t, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo, tuy nhiên bị cáo Hồ Hoàng H chỉ tự nguyện khai báo những hành vi phạm tội đã được xem xét tình tiết giảm nhẹ hình phạt thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và không thuộc trường hợp tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án nên không có căn cứ chấp nhận theo đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Hồ Hoàng H.

Qua xem xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo, xét thấy mức hình phạt Kiểm sát viên đề nghị đối với từng bị cáo là phù hợp. Do hai bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt là có căn cứ.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Xe mô tô biển kiểm soát số 68P1-405.xx và xe mô tô biển kiểm soát 65D1-231.xx đã được giải quyết trả lại cho chủ sở hữu và những người này không có yêu cầu bồi thường thêm nên không đặt ra để giải quyết như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 gói nilon không màu, hàn kín, chứa tinh thể không màu đã thu giữ đã được niêm phong sau khi giám định là ma túy thuộc loại nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

Đối với 01 quẹt gas đã qua sử dụng; 01 bình hút tự chế bằng thủy tinh có gắn ống hút và nỏ thủy tinh; 01 cây kéo bằng kim loại; 01 chai gas, 01 lưỡi lam đã qua sử dụng; 01 cây kìm bằng kim loại, cán nhựa màu xanh đã qua sử dụng; 01 ổ khóa bằng kim loại là các vật dụng dùng vào việc phạm tội và sử dụng trái phép chất ma túy, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy như đề nghị của Kiểm sát viên.

Đối với số tiền 350.000 đồng đã thu giữ, bị cáo Nguyễn Văn B trình bày là tài sản cá nhân nhưng không có căn cứ chứng minh; mặt khác, bị cáo Bình có thu lợi bất chính từ số tiền bị cáo bán tài sản trộm cắp mà có nên xác định đây là tài sản do phạm tội mà có là phù hợp, Kiểm sát viên đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước là có căn cứ.

Do đó, căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng đã thu giữ là có căn cứ.

Đối với người đàn ông nhận mua xe và người đàn ông tên Phong Phú, do không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thủy tiếp tục xác minh, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[5] Về án phí: Hai bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn B và bị cáo Hồ Hoàng H phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, o khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn B.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hồ Hoàng H.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Hoàng H 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự.

Tổng hợp hình phạt bị cáo Nguyễn Văn B phải chấp hành hình phạt chung là 03 (ba) năm tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày 31/3/2023.

Tổng hợp hình phạt bị cáo Hồ Hoàng H phải chấp hành hình phạt chung là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày 31/3/2023.

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số: 109/KL-KTHS ngày 07/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ.

Tịch thu tiêu hủy 01 quẹt gas đã qua sử dụng; 01 bình hút tự chế bằng thủy tinh có gắng ống hút và nỏ thủy tinh; 01 cây kéo bằng kim loại; 01 chai gas đã qua sử dụng; 01 lưỡi lam đã qua sử dụng; 01 cây kìm bằng kim loại, cán nhựa màu xanh đã qua sử dụng và 01 ổ khóa bằng kim loại.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng).

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện và người bào chữa cho bị cáo Hồ Hoàng H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy số 55/2023/HS-ST

Số hiệu:55/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về