Bản án về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 01/2022/HS-ST NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2021/HSST-QĐ ngày 27 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh H (tên gọi khác: không), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1992, tại Vị Thanh, Hậu Giang; Nơi cư trú: khu vực 5, phường V, thành phố Vị Thanh, Hậu Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh D và bà Bùi Thị Kim A; có vợ Phan Thị Cẩm T và 01 con; tiền án: không; tiền sự: Ngày 24/8/2021, bị Ủy ban nhân dân phường V, thành phố Vị Thanh áp dụng biện pháp giáo dục tại phường; nhân thân: Ngày 29/8/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 04 năm tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 10/9/2016; Ngày 21/9/2017, bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 12/8/2019; Bị bắt, tạm giữ ngày 05/9/2021 đến ngày 11/9/2021 chuyển tạm giam đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Ông Đặng Hoàng P, sinh năm: 2004.

Nơi cư trú: khu vực 4, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Trần Thị D.

Nơi cư trú: khu vực 4, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lý Phát H1 (H2), sinh năm: 2005.

Nơi cư trú: khu vực 5, phường V, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

- Đại diện Ủy ban nhân dân phường V, thành phố Vị Thanh: Ông Lương Quốc N – Phó trưởng Công an phường V, thành phố Vị Thanh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ, ngày 05/9/2021, Nguyễn Thanh H điều khiển xe mô tô biển số 65B2-125.55 đi từ nhà trọ tại khu vực 2, phường V đến khu vực 4 phường V để chơi. Khi đi đến đoạn Kênh Ba Liên thuộc khu vực 4, phường V thì phát hiện nhà Đặng Hoàng P không đóng cửa. Trong nhà có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu đỏ để trên nền gạch cửa đi vào, không có người trông coi. Lúc này, H nảy sinh ý định trộm điện thoại để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Vì vậy, H dừng xe, đi vào trong nhà để lấy trộm điện thoại bỏ vào trong túi quần rồi nhanh chóng ra xe tẩu thoát. Sau đó, Nguyễn Thanh H điều khiển xe mô tô biển số 65B2-125.55 đến hẻm 2, đường 3/2 thuộc khu vực 2, phường V để chở Lý Phát H đi chơi. Trên đường đi, Nguyễn Thanh H chở Lý Phát H đến tiệm điện thoại Quốc Bình và gửi lại điện thoại trộm được để mở khóa bảo mật của điện thoại.

Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Nguyễn Thanh H điều khiển xe mô tô biển số 65B2-125.55 đến gần nhà thông tin khu vực 1 phường V để tìm người bạn tên Ngọc và đưa cho Ngọc 700.000 đồng để nhờ Ngọc mua ma túy đá sử dụng. Một lúc sau, Ngọc mang ma túy đến nhà trọ cho H. Sau đó, H lấy một ít để sử dụng. Số ma túy còn lại thì H bỏ vào túi quần jean phía trước bên trái để cất giữ.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, Nguyễn Thanh H điều khiển xe mô tô biển số 65B2-125.55 đến tiệm điện thoại Quốc Bình để lấy điện thoại nhưng do không mở khóa được nên H lấy điện thoại và ra về. Khi vừa ra xe thì Nguyễn Thanh H bị Công an thành phố Vị Thanh bắt giữ.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu đỏ, số IMEI1 356556107356397.

- 01 (một) bịch chất rắn dạng tinh thể được chứa trong bịch nilon, hàn kín 03 đầu đã được niêm phong.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Wave biển kiểm soát số 65B2-125.55, xe đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 6300, đã qua sử dụng.

- Tiền Việt Nam: 30.000 đồng (ba mươi nghìn đồng).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 43/KL-HĐ ĐGTS ngày 06/9/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Vị Thanh xác định (Bút lục số 52): 01 điện thoại di động hiệu I phone 11, màu đỏ đã qua sử dụng có giá là 11.790.000 đồng (mười một triệu bảy trăm chín mươi nghìn đồng).

Tại bản kết luận giám định số 73/KLGĐ-PC09(MT) ngày 08/9/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hậu Giang xác định (Bút lục số 54): mẫu tinh thể trong suốt chứa trong 01 bịch ny lon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,13065 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 28/9/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Vị Thanh đã trả lại điện thoại di động cho người bị hại Đặng Hoàng P (Bút lục số 112).

Về trách nhiệm dân sự: Đặng Hoàng P không yêu cầu bị cáo Nguyễn Thanh H phải bồi thường thiệt hại.

Tại Bản cáo trạng số 46/CT-VKS-TPVT ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang truy tố bị cáo Nguyễn Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thanh H và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Thanh H từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt là từ 27 (hai mươi bảy) tháng đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự và án phí: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh H thừa nhận toàn bộ hành vi mà mình phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố và xin Tòa giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Ủy ban nhân dân phường V, thành phố Vị Thanh không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thành phố Vị Thanh, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vị Thanh, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng:

Bị hại Đặng Hoàng P, người đại diện hợp pháp của bị hại là bà Trần Thị D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lý Phát H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Xét, việc vắng mặt của người tham gia tố tụng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh H thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện như cáo trạng đã truy tố. Xét lời trình bày của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác nên có đủ cơ sở để khẳng định:

[3.1] Bị cáo Nguyễn Thanh H là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Khoảng 10 giờ, ngày 05/9/2021, bị cáo Nguyễn Thanh H đã có hành vi lén lút lấy trộm của bị hại ông Đặng Hoàng P 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 màu đỏ, số IMEI1 356556107356397. Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Như vậy, bị cáo biết rõ việc trộm cắp là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản nên Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3.2] Đồng thời, khi bị Công an thành phố Vị Thanh bắt giữ đã thu giữ được 01 (một) bịch chất rắn dạng tinh thể được chứa trong bịch nilon, hàn kín 03 đầu đã được niêm phong. Tại bản kết luận giám định số 73/KLGĐ- PC09(MT) ngày 08/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hậu Giang:

mẫu tinh thể trong suốt chứa trong 01 bịch ny lon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,13065 gam, loại Methamphetamine (Bút lục số 54). Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:… c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”. Như vậy, hành vi cất giữ bất hợp pháp 2,13065 gam, loại Methamphetamine mà bị cáo Nguyễn Thanh H thực hiện như đã nêu trên có đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy như Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ chất ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng là 2,13065 gam đủ yếu tố cấu thành cơ bản tội phạm. Phạm tội trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt nên Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3.3] Đối với Lý Phát H1 (H2), do không biết Nguyễn Thanh H trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vị Thanh không truy tố. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.4] Đối với đối tượng tên Ngọc là người đi mua ma túy cho H, do không rõ thông tin lai lịch nên cơ quan cảnh sát điều tra không làm việc được. Khi nào làm việc được sẽ xử lý sau. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Xét tính nguy hiểm của hành vi:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi trộm cắp tài sản trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nên nhận thức được rất rõ tác hại và sự nguy hiểm của chất ma túy khi sử dụng sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của bản thân, gia đình, xã hội và gây mất an ninh trật tự tại địa phương, việc sử dụng chất ma túy là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn và tội phạm khác, dẫn đến cùng lúc phạm hai tội nên tính chất mức độ phạm tội là rất nguy hiểm. Do đó, cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội, mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích và phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về nhân thân:

Bị cáo Nguyễn Thanh H có nhân thân không tốt, đã 02 lần bị xét xử hình sự về cùng nhóm tội chiếm đoạt tài sản, sau khi chấp hành xong bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo rất kém, bị cáo không có khả năng tự cải tạo, giáo dục. Đồng thời, bản thân bị cáo có 01 tiền sự, đang trong thời gian áp dụng biện pháp giáo dục tại phường nên bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy, nhưng bị cáo vẫn cố tình sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo nghiện ma túy, đã từng bị xử lý hình sự, được cải tạo, giáo dục nhiều lần nên lẽ ra phải biết lao động, học tập phấn đấu để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

[6] Về tình tiết tăng nặng:

Bị cáo Nguyễn Thanh H không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nên áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[8] Từ những phân tích trên, sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trên cơ sở đối chiếu với quy định của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo, trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội. Do đó, mức hình phạt tù mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về vật chứng trong vụ án:

Căn cứ vào các điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với vật chứng là 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Vị Thanh đã trả cho người bị hại ông Phúc theo Quyết định xử lý vật chứng số 14 ngày 28/9/2021 (Bút lục số 109) là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với vật chứng là 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave: Bị cáo khai là cầm của một người không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể. Quá trình điều tra đã xác định được Nguyễn Anh D, sinh năm 1992, địa chỉ số 4/3, đường Cách mạng tháng 8, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ đứng tên sở hữu. Tuy nhiên, hiện nay, Nguyễn Anh D không có mặt tại địa phương (Bút lục số 89). Do vật chứng này có liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời, bị cáo không có yêu cầu nhận lại tài sản nên Hội đồng xét xử tịch thu sung quỹ Nhà nước. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết thành vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6300 đã qua sử dụng và tiền Việt Nam 30.000 đồng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định được thuộc quyền sở hữu của bị cáo Nguyễn Thanh H và không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh H.

- Đối với vật chứng là 01 phong bì niêm phong số 73/2021 ngày 08/9/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hậu Giang, bên trong có chứa chất ma túy đã được giám định. Do đây là vật cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.

[10] Về trách nhiệm dân sự:

Trong quá trình điều tra, bị hại ông Đặng Hoàng P đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo Nguyễn Thanh H phải bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Thanh H phải chấp hành chung cho cả hai tội là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 05 tháng 9 năm 2021).

Căn cứ vào Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự; Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Thanh H 45 (bốn mươi lăm) ngày để đảm bảo thi hành án. Thời gian tạm giam tính từ ngày tuyên án (ngày 12 tháng 01 năm 2022).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự;

Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu tinh thể trong suốt trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave biển kiểm soát số 65B2-125.55, đã qua sử dụng.

- Hoàn trả cho bị cáo Nguyễn Thanh H các tài sản sau:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6300, đã qua sử dụng.

+ Tiền Việt Nam 30.000 đồng (Ba mươi nghìn đồng).

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 38/QĐ-VKS-TPVT ngày 17/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Thanh H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

578
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2022/HS-ST

Số hiệu:01/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về