TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 10/2022/HSST NGÀY 22/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Anh xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 11/2022/HSST ngày 25 tháng 3 năm 2022,theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/XXHSST – HS, ngày 08/4/2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Ngô Văn M; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không;
Sinh ngày 28 tháng 6 năm 2002, tại xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn ST2, xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; nghề nghiệp: Lao động tự do ; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; con ông: Ngô Thanh T, sinh năm 1979; Nghề nghiệp: Làm ruộng; con bà: Ngô Thị L, sinh năm: 1979; Nghề nghiệp: Làm ruộng; vợ, con: Chưa có; tiền án; Tiền sự: Không; bị cáo Ngô Văn M đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” tại xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh, từ ngày 17/11/2021 cho đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa
-Bị hại:
Chị Bùi Thị H, sinh năm 1977, nơi cư trú: Thôn ĐH, xã LH, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Kinh doanh (Vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ Liên quan:
1. Chị Ngô Thị P, sinh năm 1995, nơi cư trú: Phường T, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh: Nghề nghiệp: Lao động tự do(Vắng mặt).
2. Anh Nguyễn Đại D, sinh năm 1983, nơi cư trú: Thôn ML, xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh: Nghề nghiệp: Lao động tự do(Vắng mặt).
3. Anh Ngô Thanh T1, sinh năm 1979, nơi cư trú: Thôn ST2, xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh: Nghề nghiệp: Làm ruộng(Có mặt).
4. Chị Lê Thị L1, sinh năm 1979, nơi cư trú: Thôn ST2, xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh: Nghề nghiệp: Lao động tự do(Có mặt).
- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:
Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1980, nơi cư trú: Thôn ĐH, xã LH, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh(Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
- Hành vi trộm cắp tài sản: Vào khoảng 09 giờ ngày 29/9/2021, Ngô Văn M (sinh năm 2002; trú tại Thôn ST2, xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu DAEHAN, màu nâu, biển kiểm soát: 38K1- 4245 (xe thuộc quyền sở hữu của ông Ngô Thanh T1; trú tại xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh) đi từ nhà ở xã Stheo đường Quốc lộ 12C đến xã LH để mua sim điện thoại. Khi đi đến cửa hàng điện thoại Hồng H của chị Bùi Thị H (sinh năm 1977, trú tại Thôn ĐH, xã LH, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh), Ngô Văn M dừng xe đứng trước cửa hàng gọi chủ cửa hàng nhưng không thấy ai trả lời nên M quay ra thì gặp chị Nguyễn Thị H (sinh năm 1980, trú tại xã LH, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh), chị H1 nói với M “Vào gọi chứ chị ấy ở trong nhà”. Nghe chị H nói như vậy thì M quay lại cửa hàng điện thoại Hồng H và bước vào trong cửa hàng gọi chủ cửa hàng nhưng cũng không thấy ai trả lời. Lúc này, Ngô Văn M nhìn thấy 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu đen, đặt trong tủ kính bán hàng nên M nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. M liền đưa tay vào trong tủ kính cầm lấy chiếc điện thoại Iphone 7 Plus bỏ vào trong túi quần của mình rối đi ra điều khiển xe mô tô đi về nhà. Trên đường về, khi đi đến cầu Rào Trổ (thuộc đại phận xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh) Ngô Văn M dừng xe lại, lấy điện thoại vừa trộm cắp được ra kiểm tra thì phát hiện điện thoại không cài mật khẩu, M mở điện thoại ra thấy màn hình điện thoại có ứng dụng Viettelplay (là ứng dụng giao dịch tiền trên điện thoại di động) mang tên Bùi Thị H, Ngô Văn M biết được ứng dụng này dùng để thanh toán tài khoản nên đã truy cập vào ứng dụng bấm mật khẩu ngẫu nhiên dãy số “123456” vào phần đăng nhập mật khẩu thì mở được ứng dụng Viettelplay. Sau khi biết điện thoại không cài mật khẩu và biết mật khẩu ứng dụng Viettelplay, Ngô Văn M bỏ điện thoại vào túi quần và tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về nhà Mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 37 ngày 14/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản- UBND huyện Kỳ Anh, kết luận: Giá trị của 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, đã qua sử dụng, tại thời điểm xảy ra vụ việc là 4.000.000 đồng.
- Hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản: Trên đường đi về nhà, khi đi đến cổng chào thôn ML, xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh Ngô Văn M dừng xe lại rồi lấy điện thoại Iphone 7 Plus vừa trộm cắp được của chị H từ trong túi quần ra, sau đó mở máy điện thoại và đăng nhập vào ứng dụng Viettelplay, thấy số dư trong tài khoản của chị H còn gần 4.500.000 đồng nên M nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền này. Để thực hiện ý định của mình, Ngô Văn M đã 02 lần đăng nhập vào tài khoản ứng dụng Viettelplay của chị Bùi Thị H thực hiện 04 giao dịch thành công chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng và nạp tiền điện thoại, chiếm đoạt của chị Bùi Thị H số tiền 4.489.150 đồng, cụ thể:
Lần thứ nhất: Vào lúc 09 giờ 51phút ngày 29/9/2021, khi đi đến cổng chào thôn Mỹ Lợi, xã S, huyện K, Ngô Văn M dừng xe lại rồi mở điện thoại Iphone 7Plus vừa trộm được đăng nhập vào ứng dụng Viettelplay thực hiện giao dịch nạp thẻ điện thoại, mã giao dịch 210929672518457, mã thuê bao thanh toán “0866.821.043”của Ngô Văn M, số tiền nạp thẻ 500.000 đồng nhưng được chiết khấu 4,5%, tương đương 22.500 đồng, số tiền trong tài khoản Viettelplay của chị Bùi Thị H bị trừ là 477.500 đồng. Sau khi thực hiện thành công, Ngô Văn M tiếp tục thực hiện giao dịch nạp tiền vào tài khoản Vietcombank, số tài khoản “1017665392” mang tên Ngô Văn M, mã giao dịch 210929672549729, số tiền nạp 3.500.000 đồng, cước phí nạp là 16.500 đồng, số tiền trong tài khoản Viettelplay của chị Bùi Thị H bị trừ là 3.516.500 đồng. Lần đăng nhập này Ngô Văn M thực hiện thành công 02 giao dịch chiếm đoạt số tiền trong tài khoản Viettelplay của chị Bùi Thị H là 3.994.000 đồng.
Lần thứ hai: Sau khi đăng nhập thành công chiếm đoạt 3.994.000 đồng trong tài khoản Viettelplay của chị Bùi Thị H, Ngô Văn M bỏ điện thoại Iphone 7Plus vừa trộm vào túi quần và tiếp tục điều khiển xe đi về nhà mình. Khi về đến nhà, M cất điện thoại Iphone 7Plus vừa trộm trong phòng riêng của mình. Đến 12 giờ 23 phút, khi Ngô Văn M đang ở nhà mình thì tiếp tục lấy điện thoại Iphone 7Plus vừa trộm được đăng nhập vào ứng dụng Viettelplay rồi thực hiện giao dịch nạp tiền vào tài khoản Vietcombank, số tài khoản “1017665392” mang tên Ngô Văn M, mã giao dịch 210929675485757, số tiền nạp là 450.000 đồng, cước phí nạp là 16.500 đồng, số tiền trong tài khoản Viettelplay của chị Bùi Thị H bị trừ là 466.500 đồng. Sau khi thực hiện thành công, Ngô Văn M tiếp tục thực hiện giao dịch nạp thẻ điện thoại, mã giao dịch 210929675538852, mã thuê bao thanh toán “0326.764.457” của bà Lê Thị L1 (sinh năm 1979- trú tại Thôn ST2, xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh – là mẹ của M), số tiền nạp thẻ 30.000 đồng, nhưng được chiết khấu 4,5%, tương đương 1.350 đồng, số tiền trong tài khoản Viettelplay của chị Bùi Thị H bị trừ là 28.650 đồng. Lần đăng nhập này Ngô Văn M thực hiện thành công 02 giao dịch chiếm đoạt số tiền trong tài khoản Viettelplay của chị Bùi Thị H là 495.150 đồng.
Sau khi chiếm đoạt được tiền trong tài khoản của chị Bùi Thị H, Ngô Văn M sử dụng chuyển khoản trả nợ cho chị Ngô Thị P (sinh năm 1995, trú tại Phường T, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh) 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), chuyển vào tài khoản anh Nguyễn Đại D (sinh năm 1983, trú tại xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh) 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) để đổi tiền mặt tiêu xài cá nhân. Số tiền còn lại M sử dụng để chơi game nay đã hết. Còn chiếc điện thoại Iphone 7Plus, M để sử dụng.
Với hành vi truy cập bất hợp pháp vào tài khoản Viettelplay trên điện thoại Iphone 7Plus của chị Bùi Thị H, Ngô Văn M đã chiếm đoạt của chị Bùi Thị H tổng số tiền 4.489.150 đồng.
Vật chứng thu giữ và xử lý: Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Anh đã thu giữ và trả lại: 01 chiếc điện thoại Iphone 7Plus màu đen (đã qua sử dụng) cho chủ sở hữu là chị Bùi Thị H; 01 điện thoại Vivo màu đen đỏ (đã qua sử dụng) cho chủ sở hữu là Ngô Văn M; 01 mô tô nhãn hiệu DAEHAN màu nâu biển kiểm soát: 38K1- 4245 (đã qua sử dụng) cho chủ sở hữu là anh Ngô Thanh T1;
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng.
Tại bản Cáo trạng số 12/CT- VKSKA ngày 23 tháng 3 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Ngô Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b khoản 2 Điều 290; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Ngô Văn M 06 đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt Ngô Văn M 24 đến 27 tháng tù về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” Tổng hợp hình phạt tù của hai tôi, buộc bị cáo Ngô Văn M phải chấp hành hình phạt chung từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 -12- 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Toà án kèm theo, buộc Ngô Văn M phải nộp 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ Liên quan có mặt tại phiên toà không tranh luận với quan điểm của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan CSĐT Công an huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hai, người có quyền lợi, nghĩa vụ Liên quan, người làm chứng không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Chứng cứ: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 09 giờ ngày 29/9/2021, Ngô Văn M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu DAEHAN, màu nâu, biển kiểm soát 38K1- 4245 từ nhà ở thôn Trung Sơn 2, xã S, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh đến cửa hàng điện thoại của chị Bùi Thị H ở Thôn ĐH, xã LH, huyện K, tỉnh Hà Tĩnh để mua sim điện thoại về sử dụng. Khi đến, Ngô Văn M đi vào trong cửa hàng và gọi chủ cửa hàng nhưng không có ai trả lời, tại cửa hàng M nhìn thấy 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus để ở trong tủ kính bán hàng nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại này. Lợi dụng vào thời điểm không có người trông coi cửa hàng, M đi lại tủ kính rồi đưa tay vào lấy chiếc điện thoại Iphone 7 Plus của chị Bùi Thị H trị giá 4.000.000 đồng rồi đi về nhà mình. Sau khi lấy trộm chiếc điện thoại Iphone 7 Plus của chị Bùi Thị H, Ngô Văn M mở máy điện thoại này ra để kiểm tra thì thấy màn hình không khóa mật khẩu, tại màn hình M nhìn thấy có ứng dụng ViettelPlay. Do biết được ứng dụng này dùng để thanh toán tài khoản nên M thử đăng nhập mật khẩu ngẫu nhiên vào ứng dụng ViettelPlay thì mở được tài khoản của chị Bùi Thị H. Sau đó, Ngô Văn M đã 02 lần truy cập trái phép vào tài khoản Viettelplay trên chiếc điện thoại Iphone 7 Plus vừa trộm cắp được rồi thực hiện 04 lần giao dịch thành công chiếm đoạt số tiền 4.489.150 đồng trong tài khoản của chị Bùi Thị H.
Hành vi của Ngô Văn M cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự.
[3]. Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:
Hành vi “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” Ngô Văn M đã 02 lần đăng nhập vào tài khoản ứng dụng Viettelplay của chị Bùi Thị H thực hiện 04 giao dịch thành công chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng và nạp tiền điện thoại, chiếm đoạt của chị Bùi Thị H số tiền 4.489.150 đồng, do đó bị cáo phải chiu tình tiết tăng nặng định khung là phạm tội 02 lần trở lên.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, coi thường kỷ cương pháp luật Nhà nước, bị cáo không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn làm mất trật tự, trị an trên địa bàn khu dân cư. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của từng bị cáo.
Trong vụ án này, bị cáo Ngô Văn M thực hiện hành vi phạm tội một mình, không có đồng phạm.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về giảm nhẹ: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại; bị hại Bùi Thị H có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, theo quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình Sự. Cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng để xem xét khi quyết định hình phạt cho bị cáo, nhưng dù xem xét đến đâu thì cũng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định Cũng cần áp dụng điêm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt đối bị cáo.
[4]. Đối với các vấn đề Liên quan:
Trong vụ án này, sau khi đăng nhập ứng dụng ViettelPlay trên chiếc điện thoại Iphone 7 Plus của chị Bùi Thị H, Ngô Văn M đã chuyển nạp thẻ điện thoại vào số điện thoại 0326.764.457 của bà Lê Thị L1 (mẹ của M) số tiền bị trừ trong tài khoản của chị H là 28.650 đồng; sau khi chiếm đoạt tiền trong tài khoản của chị Bùi Thị H thông qua ứng dụng ViettelPlay, Ngô Văn M đã chuyển trả nợ cho chị Ngô Thị P số tiền 2.000.000 đồng và chuyển vào tài khoản anh Nguyễn Đại D số tiền 1.000.000 đồng để đổi tiền mặt tiêu xài cá nhân. Việc Ngô Văn M chuyển tiền cho bà L1, chị P và anh D, khi chuyển tiền M không nói cho những người này biết nguồn gốc số tiền đó do phạm tội mà có, bà L1, chị P và anh D cũng không biết số tiền này do M phạm tội mà có. Vì vậy không có căn cứ để xử lý đối với chị Lê Thị L1, chị Ngô Thị P và anh Nguyễn Đại D.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu DAEHAN, màu nâu, biển kiểm soát 38K1- 4245 (thuộc quyền sở hữu ông Ngô Thanh T1 và bà Lê Thị L1 là bố mẹ của M) mà Ngô Văn M sử dụng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, thời điểm Ngô Văn M lấy chiếc xe này đi thì cả ông Trà và bà L1 đều không có mặt ở nhà nên không biết việc Ngô Văn M lấy xe mô tô của mình đi để trộm cắp tài sản. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Anh đã trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu là phù hợp và không có căn cứ để xử lý đối với ông Ngô Thanh T1 và và Lê Thị L1.
[5]. Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Anh đã thu giữ và trả lại: 01 chiếc điện thoại Iphone 7Plus màu đen (đã qua sử dụng) cho chủ sở hữu là chị Bùi Thị H; 01 điện thoại Vivo màu đen đỏ (đã qua sử dụng) cho chủ sở hữu là Ngô Văn M; 01 mô tô nhãn hiệu DAEHAN màu nâu biển kiểm soát: 38K1- 4245 (đã qua sử dụng) cho chủ sở hữu là anh Ngô Thanh T1;, nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Ngô Văn M đã tác động bố đẻ là ông Ngô Thanh T1 tự nguyện bồi thường cho chị Bùi Thị H số tiền 5.000.000 đồng, hiện nay chị Bùi Thị H không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[7]. Về án phí: Bị cáo Ngô Văn M phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 -12- 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Toà án kèm theo; Khoản 1 Điều 173; điểm b khoản 2 Điều 290; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo: Ngô Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” Xử phạt Ngô Văn M 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt Ngô Văn M 24 ( Hai bốn) tháng tù về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” Tổng hợp hình phạt tù của hai tôi, buộc bị cáo Ngô Văn M phải chấp hành hình phạt chung là 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
- Về án phí: Buộc Ngô Văn M phải nộp 200.000 đồng(Hai trăm ngàn đồng) áp phí Hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ Liên quan có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ Liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản và sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản số 10/2022/HSST
Số hiệu: | 10/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về