Bản án về tội trộm cắp tài sản và cố ý làm hư hỏng tài sản số 05/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 09/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Hôm nay ngày 09 tháng 02 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 65/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/HSST-QĐ ngày 06 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Duy P (tên gọi khác: không), sinh năm: 1998 tại: tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: ấp 1, xã 2, huyện Thanh Bình tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn R, sinh năm: 1957 (chết) và con bà Lê Thị i, sinh năm 1966; vợ, con: không; tiền sự: không; tiền án: không; nhân thân: Ngày 28/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây T tích” chấp hành xong ngày 27/4/2018; Ngày 29/9/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 09 năm tù về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Lê Văn T, sinh năm 1993; Trú tại; ấp 3, xã 4, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, vắng mặt không lý do.

2. Lê Thành Đ, sinh năm 1963; Trú tại; ấp 5, xã 2, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, vắng mặt không lý do.

3. Hồ Thị K, sinh năm 1961; Trú tại; ấp 5, xã 2, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Phan Cao K, sinh năm 2001, có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Mai Chí H, sinh năm 1998, có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Nguyễn Thị Huỳnh Nh, sinh năm 2004, có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Lê Văn T1, sinh năm 1972, có đơn xin xét xử vắng mặt.

5. Tống Ngọc T2, sinh năm 1960, có đơn xin xét xử vắng mặt.

6. Lê Văn N, sinh năm 1960, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Duy P, Mai Chí H và Lê Văn T là bạn với nhau, nhưng đã phát sinh mâu thuẫn từ việc H thiếu nợ, nên lúc 08 giờ ngày 01/02/2021, P rủ anh ruột tên Nguyễn Duy Nh và bạn tên Nguyễn Thanh S, Phan Cao K trú tại ấp 2, xã 3, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, cùng nhau đi tìm H và T để giải quyết mâu thuẫn. Bốn người đi trên 02 xe mô tô, P thì chở S ngồi sau cầm dao tự chế dài 40cm, K thì chở N ngồi sau cũng cầm dao tự chế bằng kim loại dài 40cm rồi chạy đến nhà H ngụ ấp 5, xã 6, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, lúc này H không có nhà, nên tất cả cùng quay trở về, khi đó độ khoảng 20 giờ. Trên đường về đến đoạn đường nông thôn thuộc ấp 7, xã 2 huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp thì gặp T đang chạy xe mô tô Suzuki Satria chở bạn gái tên Nguyễn Thị Huỳnh N1 đang lưu thông ngược chiều với P và K, thấy vậy P và K đã quay đầu xe trở lại rượt theo T, biết bị P rượt, T đã tăng tốc chạy trốn, nhưng chạy được một đoạn khoảng 2Km thì P đã đuổi theo kịp xe của T, lúc đó S ngồi sau dùng dao tự chế chém trúng vào vùng hong phải của T một cái, T tiếp tục tăng ga bỏ chạy, nhưng P và K vẫn tiếp tục đuổi theo khi đến gần Văn phòng ấp 3, xã 4 thì xe của T bị tắt máy, khi đó P và S cũng vừa tới, S cầm dao tự chế chém trúng cổ tay phải T 01 cái, T bỏ chạy để lại xe mô tô, P cùng S rượt theo T nhưng T đã nhanh chân chạy thoát. Vì tức giận do không chém được T nên P giật lấy con dao của S quay trở lại chổ xe của T chém liên tục nhiều cái vào xe Suzuki, làm cho cánh yếm xe và thân xe bị nứt, yên xe bị rách, cung chống bùn bị gảy, mặt ngoài của bô xe bị móp, lúc này K chở N vừa tới nên P và S cũng lên xe rồi tất cả cùng đi về nhà. Lúc P dùng dao chém làm hư hỏng xe của T thì có Lê Văn N và Nguyễn Thị Huỳnh N1 chứng kiến. Về phía T sau khi bỏ chạy đã đến trạm Y tế xã để băng bó vết T sau đó đến Công an xã 3 trình báo sự việc bị chém và sự việc đã được điều tra làm rõ như đã nêu trên.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐ ngày 04/3/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện Thanh Bình kết luận: Tổng trị giá thiệt hại đối với bộ phận hư hỏng xe mô tô Suzuki Satria biển số 59X1-025.93 là 3.220.000 đồng.

Về T tích của Lê Văn T do S gây ra không đáng kể, nên T đã tự nguyện viết đơn ngày 30/6/2021 từ chối không giám định tỷ lệ T tật và không yêu cầu xử lý hình sự đối với P và đồng bọn về hành vi “cố ý gây T tích” Ngoài ra bị cáo Nguyễn Duy P còn thực hiện việc lén lút chiếm đoạt tài sản của Lê Thành Đ và bà Hồ Thị K cụ thể như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 22/5/2021 Nguyễn Duy P phát hiện nhà ông Lê Thành Đ và Hồ Thị K ngụ ấp 3, xã 2, huyện Thanh Bình cách nhà P khoảng 400m đang đi mua bán xoài tại nhà anh Lê Văn T ngụ ấp 1, xã 2, huyện Thanh Bình (nhà anh Tâm ở cạnh nhà P) nên P nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của vợ chồng ông Đ, để thực hiện P đi bộ đến nhà ông Đ, lúc đó nhà ông Đ không khóa quan sát không thấy ai, nên P trèo hàng rào vào bên trong nhà đi thẳng vào giường ngủ trong buồn, lục giỏ bằng vải màu đỏ để ở đầu giường, lấy được số tiền là 14.700.000 đồng. Sau đó P tiếp tục ra nhà trước lấy xâu chìa khóa đang gắn trên xe Mô tô dựng trong nhà và dùng chìa khóa đó, cạy cánh cửa tủ thờ lục soát bên trong túi vải để trong túi nilon màu đỏ, lấy 08 chiếc nhẫn trơn vàng 9999 có tổng trọng lượng là 9,5 chỉ, lấy xong số vàng trên P ra sau vườn bắt con gà trống nặng khoảng 2,4kg rồi leo rào trở ra đi về nhà. Về phía ông Đ và bà K sau khi mua bán xoài xong thì về nhà lúc này khoảng 20 giờ, phát hiện nhà cửa bị xáo trộn, kiểm tra túi xách trong phòng ngủ, và tủ thờ thì phát hiện bị mất tiền là 14.700.000 đồng vàng là 9,5 chỉ vàng loại 9999, vợ chồng ông Đ đã báo với Công an xã 2 khai rõ số tài sản bị mất và vụ án đã được khởi tố điều tra làm rõ nội dung như đã nêu trên.

Trong vụ trộm này bị cáo Nguyễn Duy P đã khai nhận có đột nhập vào nhà ông Đ bà K lục soát trong buồn ngủ, tủ thờ, tìm kiếm tài sản để lấy, nhưng không có, sau đó bị cáo ra sau vườn bắt con gà trống rồi ra về, trên đường về bị cáo đã ném bỏ chìa khóa xe dùng để cạy tủ, hiện không truy tìm được. Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông Đ bà K.

Khám nghiệm hiện trường cơ quan Điều tra đã thu giữ các vân tay trên tủ thờ còn để lại.

Tại bản kết luận giám định số 551/KL- KTHS ngày 02/6/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận 01 ảnh dấu vân tay thu tại hiện trường có ký hiệu A với dấu vân tay ngón cái trái của bị cáo Nguyễn Duy P, sinh năm 1998 cư trú tại ấp 1, xã 2, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp là do cùng một người in ra.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 90/KL-HĐ ngày 17/9/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng huyện Thanh Bình kết luận: 9,5 chỉ vàng 9999 bao gồm 02 nhẫn trơn mỗi chiếc trọng lượng 02 chỉ; 05 chiếc nhẫn trơn mỗi chiếc trọng lượng là 01 chỉ; 01 nhẫn trơn, trọng lượng 0,5 chỉ có tổng giá trị là 48.450.000 đồng; 01 con gà trống trọng lượng 2,4kilogam trị giá là 264.000 đồng; tiền việt nam đồng là 14.700.000 đồng. Như vậy giá trị tài sản mà ông Đ bị mất trộm là 63.414.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 64/CT-VKS-TB ngày 29 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy P phạm tội “ Cố ý là hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 và tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS. Tại phiên tòa Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng Truy tố vì có đủ cơ sở xác định bị cáo P thực hiện hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của Lê Văn T và lén lút chiếm đoạt của Lê Thành Đ, Hồ Thị K 9,5 chỉ vàng 9999, 01 con gà trống và tiền Ngân hàng Việt Nam. Tổng số là 63.414.000 đồng. Cho nên, đã đủ cơ sở kết tội bị cáo Nguyễn Duy P theo như cáo trạng đã truy tố.

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ, hậu quả tác hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nguyên nhân điều kiện dẫn đến phạm tội và nhân thân của bị cáo. Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P từ 03 đến 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đồng thời đề nghị tổng hợp với 09 năm tù tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo bản án số 53/2021/HS-ST ngày 29/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp theo Điều 55, 56 Bộ luật hình sự; Về trách nhiệm dân sự đề nghị buộc bị cáo bồi thường cho Lê Văn T 4.000.000 đồng. Đối với tài sản chiếm đoạt của ông Đ và bà K bị hại không yêu cầu bồi thường thì không xem xét giải quyết; Về xử lý vật chứng đã giải quyết xong nên không xem xét lại.

Bị cáo không tranh luận với Viện kiểm sát.

Nói lời sau cùng bị cáo Nguyễn Duy P đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về gia đình lo mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện và Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Bình, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản:

Bị cáo Nguyễn Duy P thừa nhận vào đêm 01/02/2021 sau khi cùng với Nguyễn Thanh S chém Lê Văn T không được, vì tức giận P đã dùng dao tự chế chém nhiều nhát vào xe mô tô Suzuki của Lê Văn T làm hư hỏng xe của T theo định giá thiệt hại xe là 3.200.000 đồng trước sự chứng kiến của nhiều người. Do đó lời nhận tội của bị cáo là có căn cứ, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Khi thực hiện hành vi bị cáo nhận thức được là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện cho nên hành vi của bị cáo Nguyễn Duy P có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” phạm vào khoản 1 Điều 178 BLHS;

Tại khoản 1 Điều 178 BLHS có quy định:

1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] về tội “Trộm cắp tài sản” Lợi dụng sơ hở của ông Lê Thành Đ và Hồ Thị K ngụ ấp 3, xã 2, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp đi vắng nhà, lúc khoảng 18 giờ ngày 22/5/2021 Nguyễn Duy P đã đột nhập vào nhà ông Đ, bà K lục lấy tiền, vàng và ra sau vườn bắt trộm con gà trống theo định giá tổng tài sản bị P chiếm đoạt là 63.414.000 đồng. Bị cáo thừa nhận có đột nhập nhà ông Đ, nhưng chỉ trộm con gà trống trị giá là 264.000 đồng còn các tài sản khác như tiền 14.700.000 đồng vàng là 9,5 chỉ vàng loại 9999 thì bị cáo không có lấy trộm. Tuy nhiên quá trình đều tra thu thập dấu vết vân tay tại hiện trường đã xác định là của bị cáo, nơi cất giấu tiền và vàng của vợ chồng ông Đ đã bị lục soát và bị hại Đ và K đã chứng minh được số tài sản mà các bị hại có được, đồng thời ngay sau khi phát hiện bị mất tài sản bị hại đã trình báo Công an và khai rõ số tài sản bị mất, vị trí cất giữ, đặc điểm túi vải đựng tiền và vàng, đúng với ghi nhận trong biên bản khám nghiệm hiện trường, bị cáo Nguyễn Duy P cũng thống nhất bồi thường số tiền như định giá là 63.414.000 đồng. Vì vậy đã có đầy đủ cơ sở để xác định số tài sản mà ông Đ và bà K bị mất trộm ngày 22/5/2021 là do Nguyễn Duy P lấy trộm. Khi thực hiện hành vi bị cáo nhận thức được hành động của mình là phạm tội, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Khách thể bị cáo xâm phạm đến là quyền sở hữu tài sản được luật hình sự bảo vệ nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến và số tiền mà bị cáo chiếm đoạt lên đến 63.414.000 đồng, đây là tình tiết định khung hình phạt. Cho nên hành vi của bị cáo Nguyễn Duy P đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” phạm vào điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Tại khoản 2 Điều 173 có quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không gian giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a)…………………………. b)………………………… c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Duy P là nguy hiểm cho xã hội làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, kỹ cương pháp luật bị xâm hại, bị cáo không tôn trọng tài sản của người khác, vô cớ đã cố ý làm hư hỏng tài sản của Lê Văn T, xem thường pháp luật, hành vi có tính chất côn đồ, chỉ vì không chém được anh T mà bị cáo đã chém tài sản của anh T để nhằm mục đích thỏa mản hành vi, vi phạm pháp luật trước đó. Chưa dừng lại ở đó, trong thời gian được tại ngoại chờ kết thúc điều tra, thì bị cáo lại lén lút chiếm đoạt tài sản của Lê Thành Đ và Hồ Thị K với tài sản có giá trị lớn, thể hiện xem thường pháp luật, thách thức cơ quan chức năng, gây hoang mang trong dư luận quần chúng, đã gây T tích cho Lê văn T bằng dao tự chế, nhưng do anh T từ chối giám định và không yêu cầu xử lý hình sự, hành động của bị cáo là nổi khiếp sợ của nhiều người. Đồng thời bị cáo là người có nhân thân xấu đã từng bị kết án về tội Cố ý gây T tích và hiện tại bị cáo đang chấp hành hình phạt 09 năm tù theo bản án số 53/2021/HS-ST ngày 29/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự. Quá trình điều tra đối với tội trộm tài sản của Lê Thành Đ và Hồ Thị K bị cáo quanh co, chối tội chưa thật thà khai báo, gây khó khăn cho công tác điều tra truy tố xét xử. Vì vậy phải có hình phạt nghiêm khắc để răng đe giáo dục bị cáo từ bỏ con đường phạm tội và nhằm mục đích để phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên HĐXX không áp dụng phạt bổ sung tiền đối với bị cáo.

[6] Xét quan điểm của Viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp với phân tích và nhận định của HĐXX. Tuy nhiên mức hình phạt của tội trộm cắp tài sản chưa nghiêm nên cần điều chỉnh phù hợp với tính chất và nhân thân của bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Lê Văn T yêu cầu bồi thường 4.000.000 đồng để sửa chữa xe, bị cáo thống nhất nên cần chấp nhận. Đối với bị hại Lê Thành Đ, Hồ Thị K bị chiếm đoạt số tài sản có giá trị 63.414.000 đồng, nhưng đã có đơn không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.

[8] Về xử lý vật chứng và tài sản thu giữ: Cơ quan điều tra đã xử lý xong đảm bảo đúng pháp luật không cần giải quyết lại.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Duy P phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị Quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo, bị hại được kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy P phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và “Trộm cắp tài sản”

1. Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P 01 (một) năm tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”

2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P 05 (năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”

3. Áp dụng Điều 55 tổng hợp hình phạt tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản” buộc bị cáo Nguyễn Duy P phải chấp hành 02 tội là 06 (sáu) năm tù.

4. Áp dụng Điều 56 tổng hợp với 09 năm tù theo bản án số: 53/2021/HS- ST ngày 29/9/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự; Buộc bị cáo Nguyễn Duy P phải chấp hành 02 bản án là 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 28/5/2021.

5. Về trách nhiệm Dân sự: áp dụng Điều 585; Điều 589 BLDS Buộc bị cáo Nguyễn Duy P bồi thường cho Lê Văn T số tiền sửa chữa xe bị hư hỏng là 4.000.000đ.

Đối với tiền bồi thường khi có đơn yêu cầu thi hành án của bên được thi hành án cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

6. Xử lý vật chứng và tài sản thu giữ: không

7. Án phí hình sự, dân sự sơ thẩm:

Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Duy P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày hôm nay tuyên án (09/02/2022). Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, và điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

522
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản và cố ý làm hư hỏng tài sản số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về