TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 24/2024/HS-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 01 năm 2024 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2024/TLST-HS, ngày 10 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Thành N (tên gọi khác: S); Giới tính: Nam; Sinh năm 1993 tại tỉnh Tiền Giang; Nơi thường trú: Ấp P, xã P, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Nơi cư trú: không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Cẩm L; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không.
Tiền sự:
- Ngày 26/6/2020, Toà án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 502/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy - Bảo trợ xã hội Phú Văn, thời gian 15 tháng. Đến ngày 04/6/2021, Cơ sở cai nghiện ma túy - Bảo trợ xã hội Phú Văn cấp giấy chứng nhận số 860/GCN-CSPV ngày 28/5/2021 về việc chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Ngày 24/01/2021, Toà án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số 10/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy - Bảo trợ xã hội Phú Văn, thời gian 18 tháng. Đến ngày 11/5/2023, Cơ sở cai nghiện ma túy - Bảo trợ xã hội Phú Văn cấp giấy chứng nhận số 126/CN-CSPV ngày 14/4/2023 về việc chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/9/2023. (có mặt)
* Bị hại: Ông Trần Thanh P, sinh năm 1982; Nơi cư trú: C3/18 Ấp 3, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Ông Nguyễn Hồng T, sinh năm 1986; Nơi cư trú: C4/10 Khu phố 3, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)
2/ Ông Trần Hiếu D, sinh năm 1991; Nơi cư trú: B1.10.11 Chung cư Lê Thành, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
3/ Ông Trương Quang H, sinh năm 1978; Nơi cư trú: 14/18P đường Đoàn Văn Tuấn, Ấp 2, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)
4/ Ông Châu Minh H1, sinh năm 1982; Nơi cư trú: 55/7 đường Đ, Khu phố 1, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
5/ Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1978; Nơi cư trú: Ấp 2, xã L, huyện C, tỉnh Long An. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ ngày 13/9/2023, bị cáo Nguyễn Thành N thuê xe Grab đi từ Ngã tư Quán Chuối đến đường B để ăn sáng. Sau đó, bị cáo đi bộ ngang qua khu nhà trọ địa chỉ C3/18 Ấp 3, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện xe mô tô Sirius màu đỏ đen, biển số 67G1-xxxxx của ông Trần Thanh P, trên xe treo 01 nón bảo hiểm màu xanh, 01 nón lưỡi trai màu xám nâu đang để trước dãy phòng trọ, không có người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm. Bị cáo đi đến chỗ xe mô tô, dùng tay kéo đứt dây điện công tắc, dẫn xe ra ngoài, nổ máy, rồi leo lên xe mô tô chạy thoát. Sau khi bị mất xe mô tô trên, ông Trần Thanh P đến Công an xã Bình Chánh trình báo. Sau đó, vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh điều tra xử lý.
Sau khi lấy trộm được xe mô tô Sirius màu đỏ đen, biển số 67G1-xxxxx, bị cáo điều khiển xe đi đến bãi bãi đất trống thuộc Tổ 7, Ấp 3, xã Bình Chánh, bị cáo vứt bỏ 01 nón bảo hiểm màu xanh, 01 nón lưỡi trai màu xám nâu và tiếp tục điều khiển xe đến nhà ông Nguyễn Hồng T tại địa chỉ: C4/10 Khu phố 3, thị trấn T để chơi và giấu xe ở bên hông nhà. Tại đây, bị cáo gọi điện thoại cho người bạn tên Q (không rõ lai lịch) xin biển số xe giả thì Q đồng ý. Sau đó, bị cáo điều khiển xe vừa trộm được đi lấy biển số giả, trên đường đi, N ghé vào tiệm tạp hóa địa chỉ: 232 Khu phố 3, thị trấn T, huyện B mua 01 cây dũa và tiếp tục điều khiển xe ra đường dẫn cao tốc kế địa chỉ: D5/133 Ấp 4, xã Tân Nhựt gặp một người bạn (không rõ lai lịch) lấy biển số xe giả 62L1-xxxxx. Tại đây, N thay biển số xe 67G1-xxxxx bằng biển số 62L1-xxxxx và dùng dũa để dũa số khung, số máy. Thực hiện xong, bị cáo điều khiển xe chạy ra cầu Chợ Đệm ném biển số xe 67G1-xxxxx và chiếc dũa xuống sông Chợ Đệm thuộc Ấp 6, xã T và tiếp tục điều khiển xe về giấu bên hông nhà anh T. Tại đây, bị cáo gắn lại sợi dây điện công tắc xe, dùng một chiếc chìa khóa xe nhặt trước đó (không nhớ địa điểm) cắm vào ổ khóa xe thì mở khóa được nên bị cáo giữ chìa khóa và lên mạng xã hội Zalo tìm người mua xe. Thông qua một người bạn giới thiệu, bị cáo kết bạn với tài khoản Zalo tên “D U”, sau khi trao đổi, thống nhất địa điểm giao dịch, giá bán xe là 4.000.000 đồng. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/9/2023, bị cáo điều khiển xe máy Sirius gắn biển số giả 62L1-xxxxx đến trước địa chỉ: 60A Đường số 4, Khu phố 3, phường A, quận B giao xe cho Trần Hiếu D và D chuyển số tiền 4.000.000 đồng vào tài khoản số 1059xxxx Ngân hàng ACB của bị cáo và điều khiển xe trên về phòng trọ số 7 của anh Châu Minh H1 tại đại chỉ: 55/7 Đỗ Năng Tế, Khu phố 1, phường A, quận B cất giữ.
Bán được xe, bị cáo thuê xe chở về nhà ông T và ở chơi tại đây. Số tiền 4.000.000 đồng bán xe có được, bị cáo chuyển vào tài khoản Ngân hàng Sacombank số 06020627xxxx của bị cáo số tiền 1.000.000 đồng, chuyển số tiền 1.600.000 đồng từ tài khoản 1059xxxx Ngân hàng ACB của bị cáo vào tài khoản Ngân hàng ACB số 37799xxxx của ông Trương Quang H (chủ nhà nghỉ Th) đổi lấy tiền mặt tiêu xài và chuyển 02 lần vào ví momo số tiền lần lượt là 200.000 đồng và 1.000.000 đồng để nạp tiền game, số tiền còn lại bị cáo trả tiền thuê xe Grap và mua trái cây. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, bị cáo đi mua đồ ăn thì bị Cơ quan Công an kiểm tra thu giữ vật chứng và đưa bị cáo về trụ sở để làm rõ.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Thành N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, tang vật thu giữ, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường cùng các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Kết luận định giá tài sản số 2739/KL-HĐĐGTS ngày 19/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh kết luận: 01 xe máy Sirius biển số 67G1-xxxxx, giá trị còn lại 9.900.000 đồng.
Cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 10/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Thành N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù;
Về dân sự: Bị hại Trần Thanh P đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.
Về vật chứng: Ghi nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả lại cho chủ sở hữu Trần Thanh P 01 xe máy Sirius biển số 67G1-xxxxx. Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước đối với số tiền 2.600.000 đồng (gồm: 05 tờ 500.000 đồng và 01 tờ 100.000 đồng) và 1.000.000 đồng được rút ra từ tài khoản Ngân hàng Sacombank số 06020627xxxx của Nguyễn Thành N; tịch thu, tiêu hủy: 01 đôi dép nhựa màu đen, quai dép có màu sọc trắng, có chữ ADIDAS và 01 bộ quần áo gồm: quần sọt màu đen, áo sơ mi màu đen.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:
Vào ngày 13/9/2023, bị cáo Nguyễn Thành N có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô Sirius biển số 67G1-xxxxx, trị giá 9.900.000 đồng của ông Trần Thanh P tại khu nhà trọ địa chỉ C3/18, Ấp 3, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Thành N đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có 02 tiền sự bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[4] Đối với Trần Hiếu D là người mua xe mô tô Sirius màu đỏ đen, biển số 67G1-xxxxx và Châu Minh H1 là người giữ xe. Danh và Hiển không biết xe mô tô trên là tài sản do bị cáo trộm cắp mà có, Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ xử lý nên không xem xét.
Đối với Nguyễn Hồng T không có liên quan và không biết được bị cáo đã trộm cắp xe mô tô trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ xử lý.
Đối với Trương Quang H không biết số tiền do N chuyển khoản là tiền do trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ xử lý.
Đối với người tên Q cho bị cáo biển số xe 62L1-xxxxx, do không xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ xử lý.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
- Bị hại ông Trần Thanh P đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là 01 xe máy Sirius biển số 67G1-xxxxx và không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
- Đối với số tiền mặt 3.600.000 đồng thu giữ của bị cáo: Xét thấy, bị cáo bán xe chiếm đoạt được cho ông Trần Hiếu D thu lợi bất chính số tiền 4.000.000 đồng. Ông Trần Hiếu D không có yêu cầu gì đối với bị cáo và không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền này, xét thấy đây là số tiền thu lợi bất chính bị cáo có được từ hành vi phạm tội nên cần buộc bị cáo nộp lại số tiền này để tịch thu, sung Ngân sách Nhà nước. Cấn trừ với số tiền 3.600.000 đồng thu giữ của bị cáo (gồm 2.600.000 đồng và 1.000.000 đồng được rút ra từ tài khoản Ngân hàng Sacombank), bị cáo còn phải nộp lại 400.000 đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước.
- Đối với 01 đôi dép nhựa màu đen, quai dép có màu sọc trắng, có chữ ADIDAS và 01 bộ quần áo gồm: quần sọt màu đen, áo sơ mi màu đen: Đây là vật để nhận dạng hành vi phạm tội của bị cáo, để lâu không còn sử dụng được và tại phiên tòa bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành N: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/9/2023.
2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
2.1. Tịch thu, sung Ngân sách Nhà nước đối với số tiền 3.600.000 (ba triệu sáu trăm nghìn) đồng.
2.2. Buộc bị cáo phải tiếp tục nộp lại số tiền 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước.
(Số tiền nêu trên đang lưu tại Kho bạc Nhà nước huyện Bình Chánh theo Giấy nộp tiền ngày 08/01/2024 vào số tài khoản 6440203000010 thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam) 2.3. Tịch thu, tiêu hủy: 01 đôi dép nhựa màu đen, quai dép có màu sọc trắng, có chữ ADIDAS và 01 bộ quần áo gồm: quần sọt màu đen, áo sơ mi màu đen.
(Vật chứng trên Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/01/2024 giữa công an huyện Bình Chánh và Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh)
3. Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Về án phí: Bị cáo chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm xe) số 24/2024/HS-ST
Số hiệu: | 24/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về