Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm tiền trong Chum) số 26/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 18/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 5 năm 2023 tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã Sơn Trà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2023/TLST-HS ngày 18/4/2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan H B; sinh ngày 28/3/1989; sinh quán: Xã S, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; trú quán: Thôn X, xã S, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan V S và bà Lê Th D (đều đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 06/8/2022 bị Công an huyện Hương Sơn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 2.500.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định số 214/QĐ-XPHC, hiện chưa nộp phạt; nhân thân: Ngày 22/12/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 66 tháng tù về tội Hiếp dâm theo quy định tại khoản 4 Điều 111 Bộ luật Hình sự năm 1999, tại Bản án số 22/2009/HSST, chấp hành xong hình phạt, ra trại vào ngày 13/01/2014; Ngày 21/8/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự, tại Bản án số 121/2018/HSST, chấp hành xong hình phạt ra trại vào ngày 17/10/2019.

Bị bắt tạm giữ ngày 24/02/2023 chuyển tạm giam từ ngày 27/02/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

- Bị hại: Bà Lê Th H , sinh năm 1958; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ:

Thôn F, xã S, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Nguyễn Thị V A , sinh năm 1982; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ:

Thôn A, xã S, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

+ Chị Trần Thị Th Th , sinh năm 1981; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ:

Thôn A, xã S, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

+ Anh Lê A Đ , sinh năm 1988; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn C, xã SC, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Lê V H , sinh năm 1990; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn L, xã SB, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Anh Lê V M , sinh năm 1978; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn I, xã S, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Th Ng , sinh năm 1973; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ:

Thôn T, xã S, huyện Hươn Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 23/02/2023, Phan H B , sinh năm 1989, trú tại thôn X, xã S, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh thấy bà Lê Th H , sinh năm 1958 là Gì của B (em gái mẹ B ) đi làm ngoài đồng, nên đã nảy sinh ý định lấy trộm tài sản. B đi bộ tới nhà bà H thấy cửa chính không khóa nên đi vào trong phòng khách thấy một chiếc Chum (gọi là Chum sành) để sát tường ở góc nhà, B đi tới lục trong Chum sành thấy có hai túi ni long được bọc lại, bên trong mỗi túi có một cọc tiền Việt Nam đồng gồm nhiều tờ mệnh giá khác nhau nên mở túi ni long lấy trộm toàn bộ số tiền bỏ vào trong túi quần, vứt túi ni long dưới sàn nhà. Sau đó B đi đến cửa hàng bán tạp hóa của chị Nguyễn V A , trú tại thôn A, xã S lấy số tiền 130.000đ trả nợ cho chị A . Một lúc sau B đi tới cửa hàng bán tạp hóa của chị Nguyễn Th Th Th , trú tại thôn A, xã S mua 01 chiếc ủng quần với giá 120.000đ và trả nợ cho chị Th số tiền 125.000đ. Tiếp đến B đi bộ đến cửa hàng “Thế giới điện thoại HĐ” của anh Lê A Đ , trú tại thôn C, xã SC, huyện Hương Sơn mua 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxi A13 với giá 4.190.000đ. Sau khi mua điện thoại xong B đi đến cửa hàng bán sim của anh Lê V H , trú tại thôn L, xã SB, huyện Hương Sơn mua 02 chiếc sim điện thoại với giá 550.000đ rồi về nhà lắp vào máy điện thoại để sử dụng. Đến tối ngày 23/02/2023 B đi đến cửa hàng tạp hóa của anh Lê V M , trú cùng thôn trả số tiền nợ trước đó 175.000đ rồi đi về nhà nằm ngủ. Sáng ngày 24/02/2023 B đến nhà bà Nguyễn Th Ng , trú cùng thôn trả nợ số tiền 500.000đ. Số tiền còn lại B tiêu xài hết 678.000đ, còn 1.132.000đ B cất giữ trên người, đến khoảng 18 giờ 05 phút ngày 24/02/2023 thì B bị lực lượng Công an huyện Hương Sơn phát hiện và bắt giữ. Tổng cộng số tiền Phan H B lấy trộm của bà Lê Th H là 7.600.000đ.

- Vật chứng thu giữ:

+ Số tiền 1.132.000 đồng thu giữ trên người Phan H B khi thi hành Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13, màu xám, số IMEI 1: 350013881683485, IMEI 2: 352270631683482, bên trong gắn 02 (hai) thẻ sim số 0385739X và 0858932X. Điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng.

+ Số tiền 4.190.000 đồng do anh Lê A Đ tự nguyện giao nộp.

+ Số tiền 130.000 đồng do chị Nguyễn Th V A tự nguyện giao nộp.

+ Số tiền 245.000 đồng do chị Trần Th Th Th tự nguyện giao nộp.

+ Số tiền 500.000 đồng do bà Nguyễn Th Ng tự nguyện giao nộp.

+ Số tiền 550.000 đồng do anh Lê V H tự nguyện giao nộp.

+ Số tiền 175.000 đồng do anh Lê V M tự nguyện giao nộp.

Toàn bộ số tiền thu giữ, quá trình điều tra đã trả lại cho bị hại bà Lê Th H . Còn đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13, màu xám, số IMEI 1: 350013881683485, IMEI 2: 352270631683482, đã trả lại cho anh Lê A Đ; còn chiếc quần ủng làm bằng nhựa dẻo, màu rằn ri, phần đế ủng có màu xanh lá cây, đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Th Th.

+ 02 chiếc thẻ sim số 0385739X và số 0858932X không chính chủ, thu giữ của Phan H B. Hiện đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Sơn để chờ xem xét, xử lý theo quy định.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Lê Th H đã nhận số tiền 6.9220.000đ, nay không yêu cầu bồi thường dân sự. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Chị Nguyễn Thị V A, chị Trần Thị Th Th, chị Nguyễn Th Ng, anh Lê A Đ, anh Lê V H, anh Lê V M không ai yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 33/CT-VKS-HS ngày 18/4/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hương Sơn truy tố bị cáo Phan H B về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phan H B về tội Trộm cắp tài sản. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan H B từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/02/2023.

Bị cáo đã khai nhận về hành vi phạm tội của mình như nội dung trên. Bị cáo không kêu oan, không tranh luận gì mà xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại bà Lê Th H không có yêu cầu gì thêm về bồi thường dân sự, về trách nhiệm hình sự đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào sáng ngày 23/02/2023 lợi dụng việc nhà bà Lê Th H không có ai ở nhà, Phan H B đột nhập vào nhà bà H lấy trộm số tiền 7.600.000đ. Vì vậy, Cáo trạng số: 33/CT- VKS-HS ngày 18/4/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Phan H B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tại phiên tòa bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân, bị cáo Phan H B đã 02 lần bị Tòa án đưa ra xét xử về các hành vi phạm tội khác nhau, tại thời điểm phạm tội lần này bị cáo đang có một tiền sự về hành vi lấy trộm tài sản, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để thay đổi bản thân, sống có ích cho gia đình và xã hội mà ngược lại bị cáo vẫn tiếp tục phạm tội.

[4] Xét tính chất, hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo Phan H B ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hợp pháp, là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Đối với 02 thẻ sim điện thoại bị cáo đã dùng tiền phạm tội để mua, nay không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị về tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về các nội dung khác: Đối với chị Nguyễn Thị V A, chị Trần Th Th Thủy, chị Nguyễn Th N, anh Lê A Đ, anh Lê V H, anh Lê V M là những người bán tài sản và nhận tiền trả nợ của bị cáo, nhưng không biết số tiền do phạm tội mà có. Do vậy, không có căn cứ để xem xét trách nhiệm của những người này.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136; Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan H B phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phan H B 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/02/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 thẻ sim số 0385739X và 01 thẻ sim số 0858932X (Tình trạng, đặc điểm theo biên bản giao nhân vật chứng ngày 19/4/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh).

4. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm tiền trong Chum) số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về