Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm ti vi) số 17/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 17/2020/HS-ST NGÀY 01/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 7 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2020/TLST – HS ngày 12 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST – HS ngày 16 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành T, sinh năm 1990, tại huyện T, tỉnh Lâm Đồng. Nơi cư trú: Tổ X, phường Đ, TP. K, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Kỹ sư xây dựng; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành P và bà Nguyễn Thị H. Bị cáo chưa có vợ. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Bị cáo đang tại ngoại. Có mặt.

- Bị hại: Ủy ban nhân xã G, huyện S, tỉnh Gia Lai.

Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đức P, chức vụ: Chủ tịch UBND xã. Đại diện theo ủy quyền: Chị Võ Thị Diệu L, sinh năm 1989 - Công chức tư pháp, hộ tịch của UBND xã G, huyện S, tỉnh Gia Lai ( theo văn bản ủy quyền ngày 18/03/2020). Địa chỉ: Thôn B, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Bá H, sinh năm 1989; Địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện K, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

-Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Anh Trần Quốc S, sinh năm 1985; Địa chỉ: Tổ dân phố X, thị trấn S, huyện S, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 17/3/2020, Nguyễn Thành T là Kỹ sư, giám sát thi công lắp đặt hệ thống trực tuyến tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện S điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại Waves, màu đen- trắng, Biển số: 81B2- 521.16 đến Trụ sở Ủy ban nhân dân xã G, huyện S để kiểm tra lắp đặt hệ thống phòng cháy, chữa cháy tại phòng họp trực tuyến của Ủy ban nhân dân xã. T dựng chiếc xe mô tô ở sân Ủy ban nhân dân xã G rồi đi lên tầng 2, thấy phòng họp trực tuyến không khóa cửa (cánh cửa khép) nên T đi vào bên trong phòng họp trực tuyến, T thấy có chiếc Ti Vi, nhãn hiệu VTB, loại 55inch, màu đen, màn hình phẳng gắn ở trên tường liền nảy sinh ý định chiếm đoạt. T dùng tay vặn, tháo chốt chiếc Ti Vi trên ra khỏi giá đỡ treo trên tường. Khi T đang chuẩn bị bê chiếc Ti Vi ra khỏi phòng thì có anh Trần Quốc S là cán bộ Công chức xã G đi lên phòng họp trực tuyến, T nghe tiếng động phía ngoài hành lang nên bỏ chiếc Ti Vi lại chạy ra ngoài. Thấy vậy, anh S tri hô và cùng lực lượng Công an xã G đuổi theo bắt được T đưa về trụ sở Ủy ban nhân dân xã G để làm việc, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tiến hành thu giữ vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan và thông báo Công an huyện Chư Sê đến giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Chư Sê, Nguyễn Thành Tuấn đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 13, ngày 20/3/2020, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Sê kết luận: 01 (một) chiếc Ti vi, loại 55inch, nhãn hiệu: VTB, màu đen (đã qua sử dụng, trang bị, lắp đặt tháng 01 năm 2020 với giá 10.000.000đ) còn lại 90% giá trị sử dụng. Tại thời điểm cần định giá chiếc Tivi nêu trên có giá là: 10.000.000đ x 90% = 9.000.000đ (Chín triệu đồng).

Tại Bản cáo trạng số 23/CT – VKS ngày 11/6/2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 57, Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T từ 06 đến 09 tháng tù cho bị cáo được hưởng án treo; Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và có lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo mứ c án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Sê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 18h30 ngày 17/3/2020, Nguyễn Thành T đã có hành vi trộm cắp 01 Ti vi loại 55inch, nhãn hiệu: VTB, màu đen, màn hình phẳng, trị giá 9.000.000đ (Chín triệu đồng) tại phòng họp trực tuyến của UBND xã G, huyện S, tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, chưa lấy được tài sản thì đã bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Tội phạm mà bị cáo gây ra xâm phạm chế độ sở hữu được Nhà nước và pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo là người có trình độ, có nghề nghiệp nhưng vẫn tham lam thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhằm thỏa mãn nhu cầu thấp hèn của bản thân. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt nên được áp dụng Điều 57 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt. Bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt tù cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo về cho chính quyền địa phương và gia đình giám sát giáo dục trong thời gian thử thách, cho bị cáo một cơ hội để tự cải tạo trở sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, đại diện bị hại không yêu cầu Nguyễn Thành Tuấn bồi thường gì thêm nên miễn xét.

[6]. Về vật chứng:

Đối với 01 (một) chiếc TiVi, nhãn hiệu VTB, loại 55inch, màu đen, màn hình phẳng là tài sản hợp pháp của UBND xã G. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Sê đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả cho UBND xã G là phù hợp.

Đối với 01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu Honda, loại Waves, màu đen- trắng, Biển số: 81B2- 521.16 là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Bá H. Ngày 17/3/2020 T mượn chiếc xe mô tô của anh H để sử dụng đi làm tại Chư Sê, sau đó đi trộm cắp tài sản, anh H hoàn toàn không biết. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Nguyễn Bá H là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành T, phạm tội “Trộm cắp tài sản” 1.Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 57 và Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T 06 (sáu) tháng tù cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thành T cho UBND phường Đ, thành phố K, tỉnh Gia Lai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án: Buộc bị cáo Nguyễn Thành T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm ti vi) số 17/2020/HS-ST

Số hiệu:17/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Sê - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về