TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 94/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2023/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2023, đối với:
Các bị cáo:
1. Hoàng Thế P, sinh năm 1991 tại Bình Phước. Nơi cư trú: Tổ H, ấp P, xã T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: phụ hồ; Trình độ học vấn: lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Hoàng Thế M; Mẹ: Lương Thị A; Vợ, con: không có;
- Tiền án: không.
- Tiền sự: Quyết định số 46/2019/QĐ-TA ngày 14/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 16 tháng.
- Nhân thân: Bản án số 53/2010/HSST ngày 30/7/2010 của Tòa án nhân dân thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Quyết định số 07/2023/QĐ-TA ngày 03/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 20 tháng.
Bị cáo bị bắt ngày 10/5/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. (có mặt)
2. Nguyễn Thế V, sinh năm 1989 tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Nơi cư trú: tổ G, ấp P, xã T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: phụ hồ; Trình độ học vấn: lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Văn T (đã chết); Mẹ: Bùi Thị T1; Vợ, con: không có;
- Tiền án: Bản án số 91/2013/HSST ngày 21/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/5/2014, chưa bồi thường trách nhiệm dân sự; Bản án số 50/2018/HSST ngày 12/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/4/2020.
- Tiền sự: Quyết định số 73/QĐ-TA ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 15 tháng; Quyết định số 98/2022/QĐ-TA ngày 10/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 15 tháng;
Bị cáo bị bắt ngày 10/5/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B. (có mặt)
Bị hại: Ông Nguyễn Phạm Đình T2, sinh năm 1990. Địa chỉ: Số G N, Khu phố B, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (vắng mặt – có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Quách Văn Đ, sinh năm 1979. Địa chỉ: Tổ H, ấp P, xã T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (vắng mặt – có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Thế P và Nguyễn Thế V là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 09 tháng 4 năm 2022, P điều khiển xe mô tô biển số 72F5-xxxx đến nhà của V để rủ V đi mua ma túy sử dụng, V đồng ý. Sau đó, P chở V đi xuống nhà bạn của V ở khu phố B, phường P, thành phố B để mượn tiền mua ma túy nhưng không gặp nên cả hai ra về. Khi P và V đi ngang qua nhà anh Nguyễn Phạm Đình T2, địa chỉ số: 7 N, khu phố B, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, thì thấy có một lồng chim hình vuông, bên trong có một con chim chào mào đang treo bên hông nhà, không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp. Lúc này, P chạy lên một đoạn rồi dừng xe lại, đứng ngoài cảnh giới, V xuống xe đi đến chỗ lồng chim, dùng tay lấy lồng chim rồi cả hai về lại xã T. Tại đây, P và V bán chiếc lồng và con chim cho ông Quách Văn Đ được 1.000.000đ. P và V cùng nhau tiêu xài hết số tiền này.
Theo Kết luận định giá tài sản số 52/KL-HĐĐGTS ngày 13/4/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận:
+ 01 (một) con chim chào mào, mua tháng 4 năm 2022, là tài sản không có các giấy tờ, không có hóa đơn chứng từ, không xác định được giống loài nên không đủ cơ sở pháp lý để xác định giá trị của tài sản;
+ 01 (một) lồng chim, kích thước 35cm x 35cm, mua năm 2021, tại thời điểm định giá ngày 19/4/2022 trị giá 2.300.000đ (Hai triệu ba trăm nghìn đồng).
- Việc thu giữ và xử lý vật chứng, phương tiện liên quan trong vụ án: 01 con chim chào mào và 01 lồng chim đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh T2; 01 xe máy biển kiểm soát 72F5-xxxx, số khung TD100W99-004200, số máy CT100E-1811350. Qua tra cứu do ông Phạm Công Hùng Q, (sinh năm 1974, địa chỉ: B khu phố D, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) là chủ sở hữu. Năm 2015, ông Q đã bán chiếc xe trên cho bà Lương Thị A (mẹ của bị cáo P), không liên quan đến tội phạm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giao trả lại xe cho bà A.
- Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Phạm Đình T2 đã nhận lại tài sản bị mất; ông Quách Văn Đ đã được bị cáo P bồi thường 1.000.000đ. Anh T2 và ông Đ không yêu cầu gì thêm.
Bản cáo trạng số 99/CT-VKSBR ngày 15/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa truy tố bị cáo Hoàng Thế P về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và Nguyễn Thế V về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận, xin được giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên các bị cáo Hoàng Thế P và Nguyễn Thế V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thế V từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Thế P từ 09 tháng đến 01 năm tù.
+ Xử lý vật chứng: Đã xử lý xong;
+ Trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; lời khai của các bị cáo phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 09/4/2022, tại nhà anh Nguyễn Phạm Đình T2, số G đường N, Khu phố B, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Hoàng Thế P và Nguyễn Thế V đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh T2 một lồng chim trị giá 2.300.000đ (Hai triệu ba trăm ngàn đồng).
Như vậy, có đủ căn cứ kết luận hành vi của Hoàng Thế P phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và Nguyễn Thế V phạm tội “Trộm cắp tài sản”, do bị cáo đang có 02 tiền án nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng tái phạm nguy hiểm, theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
[3] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác; gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo đều là người nghiện ma túy, với bản chất lười lao động, muốn có tiền mà không phải lao động nên đã nảy sinh trộm cắp tài sản của người khác để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng. Do đó, cần phải xử nghiêm nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
Trong vụ án này các bị cáo cùng thống nhất thực hiện trộm cắp tài sản nên phạm tội có tính chất đồng phạm nhưng giản đơn, bị cáo P là người canh chừng, còn V là người trực tiếp trộm cắp nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm như nhau.
Xét các bị cáo là người có nhân thân xấu, bị cáo V đang có 02 tiền án và 02 tiền sự bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị cáo P đã một lần bị kết án về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và hai lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chưa được xóa tiền sự. Do đó cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.
Tuy nhiên, sau khi phạm tội các bị cáo ra đầu thú và trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
[4] Xử lý vật chứng: Không.
[5] Trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.
[6] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo về phần tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt phù hợp với các tình tiết của vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Hoàng Thế P và Nguyễn Thế V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Nguyễn Thế V 02 (Hai) năm 06 (S) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/5/2023.
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17;
Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Hoàng Thế P (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/5/2023.
2. Xử lý vật chứng: Không.
3. Trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.
4. Án phí: Các bị cáo Hoàng Thế P và Nguyễn Thế V mỗi người phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (06/9/2023) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm; bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm lồng chim) số 94/2023/HS-ST
Số hiệu: | 94/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về