Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm điện thoại) số 203/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 203/2023/HS-PT NGÀY 04/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 188/2023/TLPT-HS ngày 31 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Hồ Minh T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 109/2023/HS-ST ngày 25 tháng 09 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo:

Hồ Minh T , sinh ngày 01 tháng 06 năm 2003, tại Q; Nơi ĐKNTTT: Tổ dân phố T, thị trấn K, huyện L, tỉnh Q; Nơi cư trú: Số 76 N, phường H, quận L, TP Đ; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Trường D1 và bà Dương Thị H (Đều còn sống); Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/10/2022. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Bá Hoàng Q, Hà Công Tiến Đ và Hồ Minh T là nhân viên làm việc tại quán bida ở địa chỉ số 122 T, phường H, quận L, thành phố Đ. Vào ngày 14/10/2022, khi Q, Đ và T đang phục vụ quán bida nói trên thì thời tiết mưa to, nước ngập lụt dâng lên nên dọn dẹp đóng cửa quán. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Tạ Quốc T1, Phạm Bảo D (là khách quen thường chơi ở quán) và Trần Quý T2 (là người yêu của Phạm Bảo D) đứng trước quán bida đang có nguy cơ bị nước cuốn nên Q, Đ và T đi vòng ra cửa sau của quán để ứng cứu. Sau khi giúp đỡ được D, T1 và T2, cả nhóm đi bộ về lại quán bida thì một chiếc xe tải cỡ lớn chạy ngang trên đường Tôn Đức Thắng, đẩy nước làm vỡ cửa kính của siêu thị Điện Máy Xanh (Địa chỉ 116 T, phường H, quận L, TP Đ.) Lúc này mực nước dâng cao nên cả nhóm vào bên trong siêu thị để tránh lũ. Sau khi vào siêu thị thì phát hiện bên trong cũng có rất nhiều người dân đang trú mưa nhưng nhân viên siêu thị Điện Máy Xanh thì không có ai (tất cả nhân viên đã lên tầng 2 tránh lũ, tại tầng 1 không có người trông coi). Trong lúc đợi nước rút, có người dân hô lớn: “Ở đây có điện thoại”. Nghe vậy thì T, D tự mỗi người lội nước đi tìm lấy điện thoại, tiếp sau đó Q và T1 thấy vậy cũng tự đi tìm lấy điện thoại. T lấy được 02 (hai) bao nylon chứa điện thoại đem đến khu vực trưng bày máy giặt rồi cùng Q và Đ bóc vỏ hộp điện thoại để bỏ điện thoại vào 03(ba) bao nylon có sẵn tại Điện máy xanh. T1 lấy được 03(ba) điện thoại bỏ trong bao nyon cất giữ riêng cho mình. D lấy được một số diện thoại và nhờ T, Q, Đ và T1 bóc vỏ hộp điện thoại để bỏ điện thoại do mình lấy trộm vào ba lô cho nhanh (ba lô có sẵn tại Điện máy xanh.) T1 cũng bỏ 01(một) điện thoại Iphone 11 vào ba lô của D. T cũng lấy bỏ vào ba lô D 03(ba) điện thoại Iphone. Sau khi lấy được điện thoại, cả nhóm ngồi đợi nước rút. Đến khoảng 0h30 ngày 15/10/2022, thấy nước đã rút bớt nên Q, T, Đ cầm mỗi người 01(một) bao nylon chứa điện thoại trộm về lại quán bida. Thắng cũng mang theo 03(ba) điện thoại trộm được theo về quán bi da để ngủ nhờ. Một lúc sau, D mang ba lô chứa điện thoại trộm được về nhà mình cất giữ. Khi về lại quán bida, T, Q và Đ cất chung số điện thoại lấy được vào thùng xốp, rồi sau đó chuyển số điện thoại qua balo của Q để cất giữ trên gác của quán bida. T1 ở lại quán bida đợi đến khoảng 4h30 cùng ngày thì mang 03(ba) chiếc điện thoại do mình trộm ra về. Ngày hôm sau, Thắng liên hệ với D nói có 01(một) điện thoại Iphone 11 bỏ vào ba lô D nên D đưa cho T1 01(một) điện thoại hiệu Iphone 11. Những chiếc điện thoại do Đ, T, Q trộm được, cả ba thống nhất sau khi bán được sẽ chia đều và trước mắt giao cho Q là người giữ điện thoại, cả ba không kiểm tra có bao nhiêu điện thoại trộm được.

Khoảng 7h30 ngày 15/10/2022, chị Nguyễn Thị T3 là quản lý của siêu thị Điện máy xanh xuống kiểm kê tài sản thì phát hiện mất một số điện thoại nên trình báo với cơ quan công an. Sau khi kiểm tra lại hàng hóa, chị T3 xác định số điện thoại bị mất trộm là 105 (Một trăm lẻ năm) chiếc điện thoại thuộc nhiều hãng sản xuất khác nhau. Tổng giá trị thiệt hại chị T3 trình báo là: 1.019.839.000 đồng (Một tỷ không trăm mười chín triệu tám trăm ba mươi chín ngàn đồng). Sau đó, chị T3 bổ sung mất trộm thêm 01(một) điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG A13 màu đen có số IMEI: 352192667510050 có giá bán là 5.190.000 đồng (Năm triệu, một trăm chín mươi ngàn đồng), tổng cộng có 106(Một trăm lẻ sáu) điện thoại bị mất trộm.

Trong số những chiếc điện thoại trong ba lô D mang về từ cửa hàng Điện máy xanh, có 01(một) Iphone 12 và 02(hai) Iphone 11 do T lấy tại cửa hàng bỏ vào ba lô của D. Sau khi D mang số điện thoại trộm được về nhà thì T liên hệ D để lấy 03 (ba) chiếc điện thoại nêu trên thì D yêu cầu T phải đổi cho D 03(ba) chiếc điện thoại khác nên T đã hỏi ý kiến của Q và Đ và thống nhất cho T lấy 03(ba) điện thoại hiệp OPPO trong số những điện thoại mà T, Q, Đ trộm được để đổi cho D lấy về 03(ba) điện thoại Iphone.

Sau khi trộm được điện thoại, ngày 17/10/2022, T bán cho Đoàn D 01(một) chiếc điện thoại hiệu Ipnhone 12 giá 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), ngày 18/10, T và Q bán cho D 01(một) Iphone 11 và 01 Samsung Galaxy Z Fold 4. Tổng cộng số tiền bán điện thoại là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) nhưng D mới đưa cho T 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng). T giữ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), đưa cho Q 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) để chia cho Đ.

Trong số các điện thoại trộm được bỏ trong ba lô mang về cất tại nhà thì Phạm Bảo D đã đổi cho T 03(ba) điện thoại Iphone lấy 03(ba) điện thoại OPPO, đã đưa cho Tạ Quốc T1 01(một) điện thoại hiệu Iphone 11, đưa cho bạn gái Trần Quý T2 01(một) điện thoại hiệu OPPO ReNo8, cho bạn tên P (không rõ lai lịch) 01 điện thoại hiệu OPPO và đưa cho bạn là Nguyễn Công T3 01(một) điện thoại hiệu Samsung Z Fold4 nhờ bán giúp. Nhưng T4 chưa bán được thì công an phát hiện và mời về làm việc.

Ngày 06 tháng 02 năm 2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Nẵng có kết luận định giá số: 11/KL-HĐĐGTS xác định tổng giá trị các tài sản (điện thoại) là: 853.868.000 đồng (Tám trăm năm mươi ba triệu, tám trăm sáu mươi tám ngàn đồng).

Ngày 28 tháng 6 năm 2023, Hội đồng định giá tài trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu ban hành Kết luận số 68 xác định: Giá trị của 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A13 màu đen , số imei: 352192667510050 có giá là 3.950.000 đồng (Ba triệu, chín trăm năm mươi ngàn đồng), Xác minh tại Ban chỉ huy Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn thành phố Đà Nẵng xác định: Hiện tượng thời tiết mưa lớn vào chiều tối ngày 14/10/2022 đến rạng sáng ngày 15/10/2022 tại địa bàn thành phố Đà Nẵng là hiện tượng thiên tai (hiện tượng mưa lớn trong thời gian ngắn gây ngập lụt).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 109/2023/HS-ST ngày 25/09/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Về hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 173; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Hồ Minh T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 19/10/2022.

Bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo Phạm Bảo D, Hà Công Tiến Đ, Nguyễn Bá Hoàng Q, Tạ Quang T1 (các bị cáo Đ, Q, T1 không kháng cáo, không bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, bị cáo D có đơn kháng cáo, nhưng đã tự nguyện rút đơn kháng cáo ngày 15/11/2023); về dân sự, án phí và thông báo quyền kháng cáo.

Ngày 04/10/2023, bị cáo Hồ Minh T có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo nhận thấy mức án sơ thẩm là quá nặng, xin tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hồ Minh T giữ nguyên nội dung kháng cáo và xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Hồ Minh T có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và trong thời hạn nên đảm bảo hợp lệ.

Về nội dung kháng cáo: Xét Bản án hình sự sơ thẩm số: 109/2023/HS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử bị cáo Hồ Minh T và đồng phạm về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 3 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá đúng tính chất vụ án, vai trò đồng phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt và nhân thân của từng bị cáo, trên cơ sở đó xử phạt bị cáo T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù là dưới mức khởi điểm của khung hình phạt bị truy tố không nặng; Mặc dù, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bên bị hại đối với số tiền bị cáo phải liên đới bồi thường theo quyết định của Bản án sơ thẩm và bên bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tuy đây là tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm, song với mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là phù hợp: Do đó, đại diện VKS tham gia phiên tòa đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Hồ Minh T khai nhận lợi dụng trong lúc thiên tai, lũ lụt và không có nhân viên, không có bảo vệ của siêu thị nên ngày 14/10/2022 bị cáo đã cùng với các bị cáo khác khác gồm Phạm Bảo D, Hà Công Tiến Đ, Nguyễn Bá Hoàng Q và Tạ Quang T1 có hành vi trộm cắp tài sản gồm nhiều điện thoại di động các loại tại siêu thị Điện Máy Xanh địa chỉ số 116 đường Tôn Đức Thắng,phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, trong đó bị cáo xác định có cùng với Hà Công Tiến Đ và Nguyễn Bá Hoàng Q trộm cắp gồm 21(hai mươi mốt) điện thoại với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 167.060.000đ (Một trăm sáu mươi bảy triệu, không trăm sáu mươi ngàn đồng); Vì vậy, bị cáo thừa nhận Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2023/HS-ST ngày 25/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử bị cáo và các đồng phạm khác về tội trộm cắp tài sản theo tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 3 Điều 173 BLHS là đúng pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo cho rằng mức hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, bị cáo Xin HĐXX cấp phúc thẩm xét giảm nhẹ một phần hình phạt để có ít thời gian học tập, cải tạo tốt sớm được đoàn tụ với gia đình.

[2] Xét nội dung kháng của bị cáo Hồ Minh T, HĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo và đồng phạm là thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người khác, đồng thời còn gây ảnh hưởng rất xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù cách ly bị cáo và đồng phạm của bị cáo trong vụ án ra ngoài xã hội để cải tạo, răn đe giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội là cần thiết; Xét khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét về vai trò, nhân thân và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng qua đó xử phạt bị cáo mức hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp; Tuy nhiên, HĐXX cấp phúc thẩm xét thấy, sau khi xét xử sơ thẩm mặc dù Bản án chưa có hiệu lực pháp luật, đồng thời khi đang bị tạm giam nhưng bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường lại toàn bộ giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường theo quyết định của Bản án sơ thẩm với tổng số tiền: 43.517.673 đ (Bốn mươi ba triệu, năm trăm mười bảy ngàn, sáu trăm bảy ba đồng) cho người bị hại, trên cơ sở đó đại diện bên bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm; Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật đối với người biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình gây ra cho bị hại.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

I. Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1.1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Minh T; Sửa Bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho bị cáo.

II. Căn cứ: Điểm b khoản 3 Điều 173; các điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Hồ Minh T: 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 19/10/2022.

III. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;

Bị cáo Hồ Minh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

IV. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm điện thoại) số 203/2023/HS-PT

Số hiệu:203/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về