Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm điện thoại) số 08/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 11/01/2023 VỀ TỘI TRM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 308/2022/HSST ngày 13/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 332/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Khổng Khương D - sinh năm: 1987; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; Chỗ ở: không xác định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Khổng Bá T; con bà: Trần Thị B; Vợ: Bùi Bích P; Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2019; Theo danh bản, chỉ bản số 438 do Công an quận Cầu Giấy lập ngày 22/09/2022; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự: Bị cáo đầu thú ngày 14/09/2022, Tạm giữ từ ngày 15/09/2022. Hiện đang tạm giam tại Trại giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội. (có mặt tại phiên tòa).

Ngưi bị hại:

1/ Chị Nguyễn Thị Bích H – sinh năm 2002 (vắng mặt tại phiên tòa) Địa chỉ: Số 49, ngõ 132/24/5, phường Q, quận C, Hà Nội.

2/ Anh Vũ Văn P – sinh năm 1999 (vắng mặt tại phiên tòa) Địa chỉ: Số 21A, ngõ 255, C, phường D, quận C, Hà Nội

3/ Anh Nguyễn Duy V – sinh năm 1995 (vắng mặt tại phiên tòa) Địa chỉ: Thôn H, xã B, huyện P, Thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Phạm Hoàng K – sinh năm 1980 Địa chỉ: Số 9B2 CT4, KĐT V, L, quận H, Hà Nội.

2/ Anh Nguyễn Đức K1 – sinh năm 2001 Địa chỉ: Số 958 đường L, phường L, quận Đ, Hà Nội

3/ Anh Tạ Trọng H – sinh năm 1990 Địa chỉ: Số 300, đường C, phường D, quận C, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau: Do không có tiền tiêu sài cá nhân nên Khổng Khương D đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Từ cuối tháng 8 năm 2022 đến ngày 14/9/2022, D đã thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Tối một ngày cuối tháng 08/2022 (bị cáo không nhớ chính xác ngày) D đi lang thang trong Công viên Cầu Giấy thuộc phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, phát hiện một đôi nam, nữ ngồi ở ghế đá, để chiếc điện thoại Vivo ở giữa ghế, D lén đi ra phía sau lấy được chiếc điện thoại Vivo rồi mang đến cửa hàng điện thoại của anh Tạ Trọng H, tại địa chỉ số 300 đường Cầu Giấy, Dịch Vọng, Cầu Giấy, Hà Nội và bán cho anh H lấy 800.000 đồng. Số tiền này D đã ăn tiêu hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 07/9/2022, D đi lang thang trong Công viên Cầu Giấy, phát hiện chị Nguyễn Thị Bích H (sinh năm 2002; HKTT: xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang) và anh Trần Quốc Huy (sinh năm 2002; HKTT: phường Q, quận H, thành phố Hà Nội) ngồi ghế đá để chiếc điện thoại Samsung Galaxy A6+ bên cạnh, D lén ra phía sau dùng tay lấy được chiếc điện thoại rời đi được một đoạn thì chị H phát hiện bị mất điện thoại hô hoán nhưng do khoảng cách xa nên không đuổi kịp. Sau đó, D mang chiếc điện thoại đến cửa hàng điện thoại của anh Phạm Hoàng K tại địa chỉ số nhà 70, ngõ 44, đường T, phường D, quận C bán cho anh K1 với giá 800.000 đồng. Số tiền này D đã ăn tiêu hết.

Vụ thứ ba: Khoảng 20 giờ ngày 13/9/2022, D đến Công viên Cầu Giấy lấy trộm của anh Vũ Duy P (sinh năm: 1999; HKTT: Thôn N, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội) chiếc điện thoại Iphone Xsmax khi anh P đang ngồi ở ghế đá chơi.

Vụ thứ tư: Khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 14/9/2022, D đi lang thang mang trong khuôn viện Bệnh viện phụ sản Hà Nội thuộc phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, phát hiện anh Dương Duy V (sinh năm: 1995; HKTT: Thôn H, xã B, huyện P, thành phố Hà Nội) đang nằm ngủ trên ghế ở hành lang trong bệnh viện, bên cạnh đê một chiếc điện thoại Iphone 12. Lợi dụng anh V ngủ, D lấy chiếc điện thoại trên rồi cùng chiếc điện thoại Iphone Xsmax lấy trước đó của anh Vũ Duy P đến của hàng sửa điện thoại của anh Nguyễn Đức K1 tại địa chỉ số 958, đường L, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội, D để lại Iphone 12 và Iphone Xsmax ở cửa hàng của K1 để phá khóa. Khoảng 22 giờ 00 phút, ngày 14/9/2022, Khổng Khương D đến Công an quận Cầu Giấy đầu thú về hành vi phạm tội.

Vật chứng thu giữ: Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 chiếc Vivo do anh Ta Trọng H giao nộp; 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A6 do anh Phạm Hoàng K giao nộp; 01 chiếc điện thoại Iphone Xsmax và Iphone 12 anh Nguyễn Đức K1 giao nộp (bút lục 157, 168, 174).

Kết luận định giá tài sản số 379 ngày 19/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trên địa bàn quận Cầu Giấy kết luận: chiếc điện thoại Iphone Xsmax 64 Gb màu trắng đã qua sử dụng có trị giá 7.060.000 đồng; chiếc điện thoại Samsung Galaxy A6+ đã qua sử dụng có trị giá 1.330.000 đồng (bút lục 48).

Kết luận định giá tài sản số 403 ngày 29/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trên địa bàn quận Cầu Giấy kết luận: Chiếc điện thoại Iphone 12 64G màu xanh đã qua sử dụng có trị giá 11.150.000 đồng (bút lục 42).

Kết luận định giá tài sản số 511 ngày 10/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trên địa bàn quận Cầu Giấy kết luận: chiếc điện thoại Vivo Ys5 màu xanh trắng đã qua sử dụng có trị giá: 850.000 đồng (bút lục 36).

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Khổng Khương D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình (từ bút lục 59 đến 83). Lời khai của bị cáo D phù hợp với lời khai của các bị hại, lời khai những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Về tang vật vụ án: Quá trình điều tra đã xác định được chiếc điện thoại Iphone 12 64G là của anh Dương Duy V; chiếc điện thoại Iphone Xsmax của anh Vũ Duy P; chiếc điện thoại Samsung Galaxy A6+ của chị Nguyễn Thị Bích H cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng số 46 ngày 29/11/2022 trả lại cho anh V, anh P và chị H. Các bị hại đã nhận tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Đối với chiếc điện thoại Vivo màu xanh trắng quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thông truy tìm bị hại và đăng báo theo quy định nhưng đến nay chưa xác định được bị hại. Cơ quan điều tra đã ra quyết định tách rút tài liệu liên quan đến chiếc điện thoại Vivo để xử lý giải quyết sau.

Đối với anh Tạ Trọng H và anh Phạm Hoàng K1 khi mua điện thoại của D, anh Nguyễn Đức K1 nhận sửa phá khóa điện thoại D mang đến đều không biết là tài sản do D trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Anh H, anh K1 không yêu cầu D trả lại số tiền các anh đã mua điện thoại của D. Anh K1 không có yêu cầu gì.

Bản cáo trạng số 295/CT-VKS ngày 12/12/2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã truy tố Khổng Khương D về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015;

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra. Bị cáo thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Bị cáo thấy được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố Khổng Khương D về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt: Khổng Khương D từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự không phải giải quyết. Tịch thu sung công quỹ số tiền thu lời bất chính của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai mà bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được, do vậy có đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ cuối tháng 08/2022 đến ngày 14/09/2022, Khổng Khương D đã lấy trộm 01 điện thoại Vivo trị giá 850.000 đồng (chưa xác định được người bị hại), 01 điện thoại Samsung Galaxy A6+ trị giá 1.330.000 đồng của chị Nguyễn Thị Bích H; 01 Iphone Xsmax 64 Gb trị giá 7.060.000đ của anh Vũ Duy P tại Công viên Cầu Giấy, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, TP.Hà Nội và 01 Iphone 12 64G trị giá 11.150.000đ của anh Dương Duy V tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội (phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội). Tổng giá trị tài sản D chiếm đoạt của các bị hại là 20.390.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy Viện Kiểm sát truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản của người khác được luật pháp bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương nơi có tội phạm xảy ra. Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, có nhận thức được hành vi và đường lối xử lý của pháp luật, nhưng vẫn thực hiện hành vi trộm cắp tài sản để có tiền chi tiêu cho cá nhân.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xét bị cáo khai báo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, sau khi phạm tội bị cáo đầu thú là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Chỉ trong 1 thời gian ngắn, bị cáo đã phạm tội từ 02 lần trở lên về cùng một loại tội phạm là tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tang vật đã được thu hồi trả người bị hại, chị H, anh P và anh V đã nhận tài sản và không yêu cầu gì nên Tòa án không xem xét.

Anh H, anh K1 không yêu cầu D trả lại số tiền anh H, anh K1 đã mua điện thoại của bị cáo. Anh K1 không có yêu cầu gì khác. Vì vậy, Tòa án không xem xét.

Sau khi thực hiện hành vi trộm cáp tài sản, bị cáo đã bán 2 chiếc điện thoại cho anh H anh K1 được 1.600.000 đồng bị cáo đã sử dụng số tiền đó để chi tiêu cho cá nhân, nay anh anh H anh K1 không yêu cầu bị cáo trả lại, đó là khoản tiền bị cáo thu lời bất chính, nên cần tịch thu số tiền trên để sung công quỹ nhà nước là phù hợp quy định của pháp luật.

[5] Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm Sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt: Khổng Khương D từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù là có cơ sở.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Người bị hại, người liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, Điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 106, Điều 136, Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, nộp án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Khổng Khương D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Khổng Khương D 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/09/2022

Về dân sự và vật chứng: Không xét Buộc bị cáo phải nộp số tiền thu lời bất chính là 1.600.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm điện thoại) số 08/2023/HS-ST

Số hiệu:08/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về