TÒA ÁN QUÂN SỰ KHU VỰC QUÂN KHU 2
BẢN ÁN 11/2023/HS-ST NGÀY 29/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 11 năm 2023, tại Hội trường xí nghiệp P - Thuốc nổ, Công ty TNHH MTV Hóa chất 21, Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 2 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Bùi Văn B, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1981 tại xã TL, huyện VC, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Bản K, xã TL, thị xã NL, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn A và bà Lý Thị C; chưa có vợ (tuy nhiên, bị cáo B và chị Hà Thị T1, sinh năm 1981 có 01 con chung tên là Bùi Thị L, sinh năm 2001); tiền án:
02 tiền án (ngày 18/8/2011 bị Toà án nhân dân huyện Văn Chấn xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999, tuyên phạt 24 tháng tù, chưa bồi thường số tiền 12.456.480 đồng cho bị hại (chưa được xoá án tích); ngày 30/12/2014 bị Toà án quân sự Khu vực 2 Quân khu 1 xét xử về tội “Phá huỷ công trình quan trọng về an ninh quốc gia” theo khoản 1 Điều 231 Bộ luật hình sự năm 1999, tuyên phạt 46 tháng tù, chưa bồi thường cho Chi nhánh VLạng Sơn số tiền 6.962.000 đồng (chưa được xoá án tích); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 16/4/1998 bị Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái tuyên 05 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, phạt cảnh cáo về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xoá án tích (coi như chưa vi phạm); Ngày 13/9/2004 bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Văn Chấn đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, ngày 16/9/2006 đã chấp hành xong; ngày 22/9/2008, bị Công an huyện Trạm Tấu xử phạt vi phạm hành chính 150.000 đồng vì đã có hành vi vi phạm “Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác” theo điểm c khoản 1 Điều 18 Nghị định 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005. Các vi phạm trên đã chấp hành xong được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 15/6/2023 đến nay; có mặt.
- Bị hại:
1. Tổng Công ty Cổ phần Công trình V- Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội; địa chỉ: Số 6, B, phường Yên Hòa, quận C, thành phố Hà Nội. Đại diện: Ông Trương Sỹ S; chức vụ, đơn vị: Phó Giám đốc kỹ thuật, Chi nhánh Kỹ thuật VLào Cai, được Tổng Giám đốc ủy quyền; vắng mặt.
2. Tập đoàn Bưu chính V. Địa chỉ: số 57 H, phường Láng Hạ, quận Đ, thành phố Hà Nội. Đại diện:
- Ông Phạm Đình P; chức vụ, đơn vị: chuyên viên Ban Kiểm tra, Pháp chế, Thanh tra thuộc VNPT, được Tổng Giám đốc ủy quyền; có mặt.
- Ông Nguyễn Thành T2; chức vụ, đơn vị: Giám đốc Trung tâm Viễn thông thông Lào Cai, được Tổng Giám đốc ủy quyền; vắng mặt.
3. Tổng Công ty Viễn thông M; địa chỉ: Số 1, đường B, phường Yên Hòa, quận C, thành phố Hà Nội.
Đại diện: Ông Nguyễn Thành T3; chức vụ, đơn vị: Trưởng Đài viễn thông Vĩnh Phúc - Trung tâm mạng lưới M miền Bắc - Tổng Công ty Viễn thông M, được Giám đốc Trung tâm mạng lưới M miền Bắc ủy quyền lại (được sự đồng ý của Tổng giám đốc Tổng công ty Viễn thông M); vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Ông Hoàng Văn T4; vắng mặt;
2. Ông Tạ Văn C1; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ ngày 10/10/2018, Bùi Văn B và Hoàng Văn T4 rủ nhau trộm cắp tài sản của các trạm phát sóng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, khi đi Bùi Văn B mang theo 01 kìm, 01 dao, 01 bao tải màu xanh, 01 bật lửa. T4 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 24K8-xxxx chở B đến trạm phát sóng của Tập đoàn Bưu chính V (BTS Vinaphone) đặt tại thôn L, xã Bản Phiệt, huyện B, tỉnh Lào Cai. Khi đến trạm phát sóng T4 đứng dưới chân cột cảnh giới, B trèo lên cột dùng kìm cắt 04 đoạn dây cáp Feeder 7/8 thả xuống đất và cắt thành 57 đoạn, mỗi đoạn có chiều dài từ 60cm -100cm, T4 nhặt cho vào bao tải. Sau đó T4 điều khiển xe mô tô, B ngồi sau đi về thành phố Lào Cai để tiêu thụ. Khoảng 04 giờ cùng ngày khi đến khu vực thôn Cánh Chín, xã Vạn Hòa, thành phố Lào Cai thì bị Công an thành phố Lào Cai kiểm tra, Bùi Văn B ngồi sau xuống xe chạy trốn, Hoàng Văn T4 bị giữ cùng số tang vật.
Quá trình điều tra Hoàng Văn T4 khai nhận ngoài lần trộm cắp tại trạm phát sóng BTS Vinaphone đặt tại thôn L, xã Bản Phiệt, B, tỉnh Lào Cai, T4 còn cùng với Bùi Văn B thực hiện 06 lần cắt trộm dây Feeder 7/8 của các trạm thu phát sóng trên địa bàn thành phố Lào Cai; huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Cụ thể:
Lần 1: Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 25/9/2018, B cùng với T4 đến trạm thu phát sóng BTS LCI352 Vđặt tại tổ 13, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai cắt trộm 04 đoạn dây cáp Feeder 7/8, có tổng chiều dài 48m, sau đó cắt thành từng đoạn từ 50cm - 60cm cho vào bao tải, mang đến khu vực bãi đổ đất Công ty số 6, thuộc tổ 2, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai đốt lấy lõi đồng.
Lần 2: Khoảng 01 giờ ngày 30/9/2018, B cùng với T4 đến trạm thu phát sóng trạm BTS LC - LCI - BAC CƯƠNG - 3 M đặt tại tổ 17, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, cắt trộm 06 đoạn dây Feeder 7/8 nối từ cột thu phát sóng đến nhà trạm có tổng chiều dài 138m, B dùng dao cắt thành từng đoạn ngắn, T4 cho vào bao tải, sau đó mang đến sân quán Martin Club, thuộc tổ 14, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai để đốt lấy lõi đồng.
Lần 3: Khoảng 23 giờ ngày 03/10/2018, B và T4 đến trạm BTS LCI0007 Vđặt tại phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai, cắt trộm 03 đoạn dây cáp Feeder 7/8 nối từ cột thu phát sóng đến nhà trạm, có tổng chiều dài 60m, cho vào bao tải, đem đến sân quán Martin Club thuộc tổ 14, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai đốt lấy lõi đồng.
Lần 4: Khoảng 02 giờ ngày 04/10/2018, B cùng với T4 đến trạm thu phát sóng BTS của Trung tâm mạng lưới M, đặt tại thôn Tân Hồng, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, cắt trộm 02 đoạn dây cáp Feeder 7/8, có tổng chiều dài 20,72m, sau đó cắt thành từng đoạn dài khoảng 30cm rồi cho vào bao tải, mang đến đường Vạn Hoà thuộc xã Vạn Hoà, thành phố Lào Cai đốt lấy lõi đồng.
Lần 5: Khoảng 22 giờ ngày 05/10/2018, B cùng với T4 đến cột phát trạm BTS LC-LCI-BAN PHIET-2 của M Miền Bắc đặt tại tổ 11, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, cắt trộm 04 đoạn dây Feeder 7/8 nối từ cột đến nhà trạm có tổng chiều dài 92m, dùng dao cắt thành nhiều đoạn từ 50cm - 60cm, cho vào bao tải, mang đến khu bãi rác Đồng Tuyển, thuộc thôn 1, xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai đốt lấy lõi đồng.
Lần 6: Khoảng 22 giờ ngày 06/10/2018, tại trạm BTS LCI352 của Vđặt tại tổ 13, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai, T4 đứng dưới chân cột cảnh giới, B dùng dao cắt 06 đoạn dây cáp Feeder 7/8 nối từ cột đến nhà trạm với tổng chiều dài 66m, T4 và B cắt thành nhiều đoạn ngắn cho vào bao tải, mang đến khu vực bãi đổ đất Công ty số 6, thuộc tổ 2, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai đốt lấy lõi đồng.
Hậu quả: Tổng trị giá tài sản bị thiệt hại của các trạm BTS là 37.604.720 đồng.
Trong đó: Các trạm BTS của Tổng Công ty Cổ phần Công trình Vbị thiệt hại 12.528.000 đồng; các trạm BTS của Trung tâm mạng lưới M Miền Bắc thiệt hại 23.185.920 đồng; Trạm BTS Vinaphone thiệt hại 1.890.810 đồng.
Cả 06 lần trên, Hoàng Văn T4 và Bùi Văn B đều mang lõi đồng đi bán cho ông Tạ Văn C1, có địa chỉ tại số nhà 22, tổ 22, phường BM, thành phố LC được tổng cộng 8.200.000 đồng.
Ngày 18 tháng 10 năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can đối với Hoàng Văn T4, ngày 12/12/2018 Cơ quan Điều tra hình sự Khu vực 1 - Các tổ chức sự nghiệp Bộ Quốc phòng ra Quyết định khởi tố bị can đối với Bùi Văn B về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Ngày 25/4/2019 Toà án quân sự Khu vực 1 - Quân khu 2 xét xử Hoàng Văn T4 về tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt 18 tháng tù. Đối với Bùi Văn B ngày 10/10/2018 bỏ trốn và bị truy nã.
Ngày 14/6/2023, Bùi Văn B ra đầu thú tại Công an xã TL, thị xã NL và khai nhận đã cùng Hoàng Văn T4 thực hiện 07 lần trộm cắp dây cáp Feeder 7/8 của các trạm thu phát sóng trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Trong thời gian bỏ trốn B sống làm thuê bốc vác hàng tại khu vực cửa khẩu quốc tế Lào Cai thuộc phường Lào Cai, thành phố Lào Cai.
Quá trình sinh sống, làm thuê bị cáo không vi phạm pháp luật. Tại các Biên bản khám nghiệm hiện trường tại các trạm BTS của Vdo Cơ quan cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an thành phố Lào Cai lập các ngày 06/10/2018 và 08/10/2018 thể hiện:
Tại trạm BTS thuộc tổ 13, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai: Tại nhà trạm và cột phát sóng phát hiện 06 sợi dây Feeder có đặc điểm như nhau, các đầu dây bị cắt bờ mép nham nhở. Khoảng cách từ 06 sợi dây bị cắt trên cột phát sóng đến 06 sợi dây bị cắt ở nhà trạm là 11m, tổng chiều dài là 66m.
Tại trạm BTS thuộc khu thương mại Kim Thành:…trên cột sóng cao cách nền 15m, kiểm tra phát hiện có 03 dây Feeder bị cắt bờ nham nhở tương ứng với 03 đầu dây tại vị trí lỗ số 01, khoảng cách hai đầu dây bị cắt qua thang đỡ dài 20m.
Ngày 10/10/2018, VLào Cai - Tập đoàn công nghiệp - Viễn thông quân đội có trình bày về số lượng dây Feeder bị mất như các Biên bản khám nghiệm hiện trường đã nêu và có nội dung: “vào khoảng từ ngày 25/9/2018 - 06/10/2018 trong quá trình đi kiểm tra trạm BTS, VLào Cai phát hiện Trạm BTS LCI 352 có địa chỉ tại trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai, phường Bình Minh, TP Lào Cai mất 04 sợi dây có tổng chiều dài 48m (phát hiện mất vào ngày 26/9/2018), mất lần hai 06 sợi là 66m (phát hiện mất ngày 07/10/2018)”; Trạm BTS LCI 007 tại Kim Thành, phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai mất 03 sợi tổng chiều dài 60m (phát hiện mất vào ngày 04/10/2018).
Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường tại các trạm BTS của M do Cơ quan CSĐT Công an thành phố Lào Cai lập các ngày 06/20/2018 và 07/10/2018 thể hiện:
Trạm BTS thuộc tổ 17, phường Bắc Cường: Tại nhà trạm và trên cột thu, phát sóng có 06 sợi dây Feeder bị cắt có bờ mép nham nhở. Khoảng cách từ 06 sợi dây bị cắt ở nhà trạm đến 06 sợi dây bị cắt ở cột thu phát sóng là 23m, tổng chiều dài là 138m.
Trạm BTS thuộc tổ 11, phường Lào Cai: Tại nhà trạm phát hiện 04 dây Feeder, phần đầu của mỗi dây có dấu vết cắt bờ mép nham nhở. Kiểm tra cột thu, phát sóng tại vị trí cách bệ bê tông 15m phát hiện 02 đoạn dây Feeder, tại vị trí cách bệ bê tông 24m, phát hiện 02 đoạn dây Feeder, đầu các đoạn dây có dấu vết cắt bờ mép nham nhở. Số dây Feeder bị mất có tổng chiều dài 92m.
Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường tại trạm BTS của M do Cơ quan CSĐT Công an huyện Bát Xát lập ngày 12/10/2018 thể hiện: Trạm BTS thuộc thôn Tân Hồng, xã Bản Qua, huyện Bát Xát: Tại vị trí trên cột sóng cách nền đất 11,7m phát hiện dấu vết cắt sắc gọn 02 dây Feeder 7/8, đường kính 28cm...dưới đất trước của trạm BTS phát hiện nắp nhựa màu cùng với loại dây Feeder 7/8 trên cột phát sóng.
Ngày 08/10/2018, Trung tâm mạng lưới M miền Bắc - Tổng Công ty viễn thông M có đơn trình báo về việc các trạm BTS bị mất số lượng dây Feeder như các biên bản khám nghiệm hiện trường đã nêu và có nội dung: “…Hồi 01h00’ ngày 30/9/2018, trạm BTS Bắc Cường 3 và hồi 22h00’ ngày 05/10/2018, trạm BTS Bản Phiệt 2 cảnh báo mất tín hiệu đường truyền…”.
Tại Biên bản xác định hiện trường do Cơ quan CSĐT Công an B lập ngày 10/10/2018 có nội dung: “trạm BTS Vinaphone tại thôn L, xã Bản Phiệt, huyện B bị cắt mất 04 đoạn dây cáp, chiều dài mỗi đoạn 9,75m, các đoạn bị cắt từ phần giá nằm ngang lên đến các ăng ten được gắn trên cột”.
Tại phiên tòa, đại diện của Tập đoàn Bưu chính V trình bày về số lượng dây Feeder bị mất như các biên bản khám nghiệm hiện trường đã nêu và có nội dung: “…Ngày 10/10/2018 trạm BTS tại thôn L, xã Bản Phiệt, huyện B phát hiện mất 04 đoạn dây mỗi đoạn 9,75m tổng số là 39m và hư hỏng 18 hộp cáp Feeder 7/8 bằng nhựa ”.
Các Biên bản xác định hiện trường do Cơ quan CSĐT Công an thành phố Lào Cai lập ngày 10/10/2018 có nội dung:
Tại khu vực bãi đổ đất Công ty số 6 thuộc tổ 2, phường Bình Minh, thành phố Lào Cai phát hiện hai đám tro nhựa cháy màu đen, cách nhau 80m có diện (1 x 0,8)m và (1,2 x 0,7)m. Hoàng Văn T4 khai nhận đây là hai vị trí T4 và đồng bọn đốt dây cáp lấy trộm tại các trạm BTS vào ngày 25/9/2018 và ngày 06/10/2018.
Tại sân quán Martin Club đã bị phá dỡ thuộc tổ 14, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai phát hiện một đám tro nhựa đã cháy màu đen có diện (0,8 x 2)m, Hoàng Văn T4 khai nhận đây là vị trí T4 và đồng bọn đốt dây cáp đã lấy tại trạm BTS Bắc Cường và trạm BTS tại khu thương mại Kim Thành.
Tại khu vực đường đất cách đường đi vào bãi rác Đồng Tuyển thuộc thôn 1, xã Đồng Tuyển, thành phố Lào Cai 300m phát hiện một đám tro nhựa đã cháy màu đen có diện 0,8 x 0,9m. Hoàng Văn T4 khai nhận đây là vị trí T4 và B đốt dây cáp đã trộm cắp tại trạm BTS thuộc tổ 11, phường Lào Cai vào ngày 05/10/2018.
Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn B khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu và có nội dung: Do không có việc làm nên khi gặp T4 ở khu vực cầu Cốc Lếu đã rủ T4 đi lấy trộm dây tiếp địa của các trạm phát sóng trên địa bàn thành phố Lào Cai và các vùng lân cận. Từ ngày 25/9 đến 10/10/2018 bị cáo và T4 đã 07 lần đi cắt trộm dây tiếp địa trên địa thành phố Lào Cai; huyện Bát Xát; huyện B. Sau đó đốt lấy lõi đồng bán cho anh Tạ Văn C1 tại thành phố Lào Cai. Do không có việc làm cũng như thu nhập nên tiền bán được bị cáo mua ma túy và chi tiêu sinh hoạt cá nhân hàng ngày hết.
Tại cơ quan điều tra người làm chứng Hoàng Văn T4 khai có nội dung: “...khoảng ngày 13-14/9/2018, tôi đi bộ loanh quanh ở khu vực cầu Cốc Lếu để tìm mua ma túy thì gặp và quen nam thanh niên tên B, sau đó B rủ tôi đi lấy dây truyền tín hiệu ở các cột phát sóng do trong dây có lõi bán được nhiều tiền, tôi đồng ý và cùng B thực hiện 07 lần trộm cắp tài sản là dây truyền tín hiệu trên địa bàn Lào Cai”, cụ thể các lần:
Lần thứ 01: Khoảng 21 giờ, ngày 25/9/2018, tại khu vực cổng sau Trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai, thuộc phường Bình Minh, thành phố Lào Cai, tại đây có 01 cột phát sóng di động, khi đến nơi tôi đứng dưới chân cột cảnh giới, B trèo lên cột cắt được 04 đoạn dây dài...; Lần thứ 02: Khoảng 01 giờ sáng, ngày 30/9/2018, tại phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tôi cảnh giới xung quanh, anh B leo lên cột cắt dây cáp khoảng được 4 - 5 đoạn dây...; Lần thứ 3: Khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 03/10/2018 tại khu công nghiệp Kim Thành, phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai tại đây tôi đứng cảnh giới, anh B trèo lên cắt trộm được 03 đoạn dây cáp...; Lần thứ 4: Khoảng 02 giờ ngày 04/10/2018, tại khu vực thôn Tân Hồng, xã Bản Qua, huyện Bát Xát tôi đứng cảnh giới ở dưới, anh B leo lên cột phát sóng cắt trộm được khoảng 20m dây cáp...; Lần thứ 5: Khoảng 22 giờ ngày 05/10/2018 tại tổ 11, phường Lào Cai tôi ở dưới cảnh giới xung quanh, anh B trèo lên cột cắt được khoảng 04 đoạn dây cáp...; Lần thứ 6: Khoảng 22 giờ ngày 06/10/2018 tại khu vực trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai (đây là khu vực chúng tôi đã trộm cắp ngày 25/9/2018) để cắt trộm dây cáp điện, tại đây tôi đứng dưới cảnh giới còn B trèo lên cắt trộm, anh B cắt được khoảng 06 đoạn dây...; Lần thứ 7: Khoảng 01 giờ ngày 10/10/2018, tại khu vực thôn L, xã Bản Phiệt phát hiện có cột thu phát sóng viễn thông, khi đến nơi anh B trèo lên cắt trộm được khoảng 40m dây, còn tôi cảnh giới xung quanh, sau đó tôi và anh B cắt thành từng đoạn nhỏ cho vào bao tải mang đi tiêu thụ thì bị Công an thành phố Lào Cai kiểm tra bắt giữ, anh B chạy thoát.
Công cụ, phương tiện chúng tôi thực hiện hành vi phạm tội gồm: 01 xe máy nhãn hiệu Win, BKS 24K8-xxxx, 01 kìm có chuôi nhựa màu đỏ dài khoảng 20cm, 01 dao gọt hoa quả chuôi bằng nhựa màu đen dài khoảng 30cm; 01 bao tải màu xanh; 01 bật lửa. Xe máy là của tôi; bao tải, dao, kìm, bật lửa là của anh B... Thủ đoạn trộm cắp là lợi dụng đêm tối để đến các trạm phát sóng, quan sát và biết các trạm phát sóng không có người trông coi nên đã trộm cắp dây Feeder của các trạm đó. Chỉ có tôi và B thực hiện hành vi trộm cắp, ngoài ra không có ai khác. Mục đích lấy trộm dây lõi đồng là để bán lấy tiền mua ma tuý, chi tiêu cá nhân...chúng tôi không nói cho chủ quán biết đó là tài sản do trộm cắp mà có...Tất cả những lần đốt lấy được lõi đồng đều bán cho anh Tạ Văn C1 có địa chỉ tại số nhà 22, tổ 22, phường BM, thành phố LC...
Tại cơ quan điều tra, người làm chứng Tạ Văn C1 khai có nội dung: “…Trong tháng 9 và tháng 10/2018, tôi đã nhiều lần mua dây đồng do Bùi Văn B (sau này tôi mới biết tên) cùng 01 nam thanh niên mang đến với giá 100.000 đồng/kg... Thời gian mua vào buổi sáng các ngày 26, 30/9/2018, ngày 03 hoặc 04/10/2018, ngày 05 hoặc 06/10/2018 và đêm ngày 06/10/2018... Tôi không nhớ khối lượng từng lần mua, chỉ nhớ một lần 7kg, một lần 13kg, hai lần 14kg và một lần 24kg. Tổng số tiền tôi trả họ là 8.200.000 đồng… Số đồng trên là loại đồng đã bị đốt vỏ ngoài, để trong bao tải; tôi đã bán cho một người phụ nữ tôi không biết rõ tên, địa chỉ. Khi mua, tôi không biết đây là tài sản có được do trộm cắp…”.
Kết luận định giá số 79/KL-HĐĐG ngày 16/10/2018 và số 80/KL-HĐĐG ngày 19/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Lào Cai xác định: 48m dây cáp điện Feeder của Vtrị giá 3.456.000 đồng; 60m dây cáp điện Feeder của Vtrị giá 4.320.000 đồng; 66m dây cáp điện Feeder của Vtrị giá 4.752.000 đồng; 138m dây cáp Feeder của M trị giá 12.718.080 đồng; 92m dây cáp Feeder của M trị giá 8.478.720 đồng.
Kết luận định giá số 17/KL-HĐĐG ngày 15/11/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Bát Xát kết luận: 02 đoạn dây cáp Feeder 7/8 có tổng chiều dài 20,72m dây cáp điện của M có trị giá 1.989.120 đồng.
Kết luận định giá số 40/KL-HĐĐG ngày 26/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B xác định: 04 đoạn dây cáp feeder 7/8 của Vinaphone có tổng chiều dài 39m trị giá 1.649.700 đồng; 18 ốp cáp Feeder trị giá 241.110 đồng.
Tại Cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 29 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát quân sự Khu vực 22 truy tố Bùi Văn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại các điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự (BLHS).
Luận tội tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm về tội danh, điều luật như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo; đồng thời phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả vụ án, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):
- Về hình sự: Áp dụng điểm b, g khoản 2 Điều 173; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn B từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giam, ngày 15/6/2023.
Hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
- Về trách nhiệm dân sự: Bản án số 02/2019/HS-ST ngày 25/4/2019 của Toà án quân sự Khu vực 1 - Quân khu 2 tuyên buộc bị cáo Hoàng Văn T4 phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho Tổng công ty Cổ phần Công trình Vvà Trung tâm mạng lưới M Miền Bắc - Tổng công ty Viễn thông M, tổng số tiền 33.724.800 đồng. Trong đó, bồi thường cho Tổng công ty Cổ phần Công trình V12.528.000 đồng, bồi thường cho Trung tâm mạng lưới M Miền Bắc - Tổng công ty Viễn thông M 21.196.800 đồng và được các bị hại đồng ý, Hoàng Văn T4 nhất trí với trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bùi Văn B nhất trí bồi thường toàn bộ thiệt hại tại hai trạm phát sóng T4 và B trộm cắp ngày 04/10/2018, tại thôn Tân Hồng, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai và ngày 10/10/2018 tại thôn L, xã Bản Phiệt, huyện B, tỉnh Lào Cai. Tập đoàn Bưu chính V yêu cầu Bùi Văn B phải bồi thường 180m dây Feeder 7/8, tương đương với số tiền 7.614.000 đồng đã đưa vào thay thế 39m dây Feeder 7/8 và 18 hộp ốp cáp trị giá 241.110 đồng T4 và B đã cắt tại thôn L, xã Bản Phiệt, huyện B, tỉnh Lào Cai, bị cáo B nhất trí bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại. Trung tâm mạng lưới M Miền Bắc - Tổng công ty Viễn thông M không yêu cầu Bùi Văn B phải bồi thường thiệt hại lần trộm cắp ngày 04/10/2018 tại thôn Tân Hồng, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, bị cáo B nhất trí.
Viện kiểm sát đề nghị HĐXX ghi nhận sự thoả thuận bồi thường thiệt hại giữa Tập đoàn Bưu chính V với bị cáo; ghi nhận Trung tâm mạng lưới M Miền Bắc - Tổng công ty Viễn thông M không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.
- Về thu giữ và xử lý vật chứng: Các vật chứng đã được xem xét giải quyết trong vụ án Hoàng Văn T4 phạm tội trộm cắp tài sản. Do vậy không xem xét trong vụ án này.
- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội.
Bị cáo, Đại diện theo ủy quyền của Tập đoàn Bưu chính V đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội đã gây ra, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, HĐXX thấy các hành vi, quyết định của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong vụ án đều được thực hiện hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, đại diện bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xác minh tại phiên tòa, HĐXX có đủ cơ sở nhận định: Để có tiền chi tiêu cá nhân và mua ma túy sử dụng; lợi dụng đêm tối vắng người qua lại, các trạm BTS đặt xa khu dân cư, không có người trông coi nên bị cáo đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Trong thời gian từ ngày 25/9/2018 đến ngày 10/10/2018, bị cáo đã 07 lần lén lút chiếm đoạt các dây cáp dẫn sóng Feeder tại các trạm BTS của Tổng Công ty cổ phần công trình Viettel; Tổng Công ty viễn thông M và Tập đoàn Bưu chính V trên địa bàn thành phố Lào Cai, huyện Bát Xát, huyện B, tỉnh Lào Cai. Trong đó, bị cáo đã 03 lần chiếm đoạt tổng cộng 174m dây Feeder của Vtrị giá 12.528.000 đồng; 03 lần chiếm đoạt tổng cộng 250,72m dây cáp Feeder của M trị giá 23.185.920 đồng; 01 lần chiếm đoạt 39m dây Feeder có trị giá 1.649.700 đồng, hư hỏng 18 hộp ốp cáp của Vinaphone có trị giá 241.110 đồng (tổng giá trị tài sản bị thiệt hại của Vinaphone là 1.890.810 đồng). Tổng tài sản bị thiệt hại của các trạm BTS do bị cáo gây ra trị giá 37.604.730 đồng. Sau mỗi lần chiếm đoạt, bị cáo đều mang số dây Feeder đi đốt lấy lõi đồng và bán cho ông Tạ Văn C1 làm nghề thu mua phế liệu với giá 100.000 đồng/kg, được tổng cộng 8.200.000 đồng.
Về tình tiết định khung hình phạt: Trong khoảng thời gian từ ngày 25/9/2018 đến ngày 10/10/2018 bị cáo đã 07 lần trộm cắp dây cáp Feeder của các cột phát sóng mục đích là đốt lấy lõi đồng bán lấy tiền, qua xác minh tại xã TL, thị xã NL, tỉnh Yên Bái thì Bùi Văn B không có công ăn việc làm và nguồn thu nhập ổn định. Tiền có được từ bán lõi đồng bị cáo dùng để mua ma tuý và chi tiêu cá nhân. Bị cáo B đều lấy các lần phạm tội này làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính, do đó các hành vi phạm tội này của bị cáo có tính chất chuyên nghiệp.
Bị cáo Bùi Văn B có 02 tiền án: Ngày 18/8/2011, bị Toà án nhân dân huyện Văn Chấn xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999, tuyên phạt 24 tháng tù chưa chấp hành phần bồi thường cho bị hại là Công ty lưới điện cao thế Miền Bắc (nay là Công ty dịch vụ điện lực Miền Bắc) số tiền 12.456.480 đồng (chưa được xoá án tích); Ngày 30/12/2014, bị Toà án quân sự Khu vực 2 - Quân khu 1 xét xử về tội “Phá huỷ công trình quan trọng về an ninh quốc gia” quy định tại khoản 1 Điều 231, điểm g (tái phạm) khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999, tuyên phạt 46 tháng tù, chưa bồi thường số tiền 6.962.000 đồng cho Chi nhánh VLạng Sơn (chưa được xóa án tích). Do bản án chưa được xóa án tích, bị cáo lại thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Do vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp định khung tăng nặng quy định tại điểm b, g khoản 2 Điều 173 BLHS. Ý kiến của KSV về tội danh là có căn cứ.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội bị cáo gây ra là nghiêm trọng; trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước do Tổng Công ty Cổ phần Công trình Viettel, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội; Tập đoàn Bưu chính V; Tổng Công ty Viễn thông M quản lý được pháp luật bảo vệ.
Do đó, hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
[4] Xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX thấy:
Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy, có 02 tiền án: Ngày 18/8/2011 bị Toà án nhân dân huyện Văn Chấn xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 (chưa được xoá án tích); Ngày 30/12/2014 bị Toà án quân sự Khu vực 2 - Quân khu 1 xét xử về tội “Phá huỷ công trình quan trọng về an ninh quốc gia” theo khoản 1 Điều 231 Bộ luật hình sự năm 1999 (chưa được xóa án tích). Ngoài ra, ngày 16/4/1998 bị Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái tuyên phạt 05 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, phạt cảnh cáo về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xoá án tích coi như chưa vi phạm); Ngày 13/9/2004 bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Văn Chấn đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; ngày 22/9/2008, bị Công an huyện Trạm Tấu ra Quyết định xử phạt 150.000 đồng vì đã có hành vi vi phạm “Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác” theo điểm c khoản 1 Điều 18 Nghị định 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005, các vi phạm này đã chấp hành xong (được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính).
Bị cáo đã 07 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”; chưa có lần nào bị truy cứu TNHS và chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo B thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau thời gian bỏ trốn, ngày 14/6/2023 bị cáo Bùi Văn B đã chủ động đến Công an xã Thanh Lương, thị xã Nghĩa Lộ đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào mục đích của hình phạt cũng như yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, HĐXX thấy bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội nhiều lần nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.
Xét bản thân bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 BLHS. [5] Đối với hành vi “Trộm cắp tài sản” của Hoàng Văn T4: Tại trạm BTS của M ngày 04/10/2018 đặt tại thôn Tân Hồng, xã Bản Qua, huyện Bát Xát; trạm BTS của Vinaphone ngày 10/10/2018 đặt tại thôn L, xã Bản Phiệt, huyện B đã bị Công an huyện Bát Xát và Công an huyện B xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; Công an thành phố Lào Cai khởi tố, cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội điều tra, tuy tố, xét xử về hành vi trộm cắp tài sản 05 lần trên địa bàn thành phố Lào Cai theo Bản án số 02/2019/HSST, ngày 25/4/2019 của Toà án quân sự Khu vực 1 - Quân khu 2 theo quy định của pháp luật.
Nên HĐXX không xem xét.
[6] Đối với ông Tạ Văn C1 06 lần mua dây đồng của bị cáo nhưng không biết đây là tài sản do phạm tội mà có. Những người B khai nhận có mua ma tuý ở trên đường, không mua ở nơi nào cố định, không biết tên, tuổi, địa chỉ những người này. Do đó, cơ quan điều tra không xem xét xử lý là có căn cứ.
[7] Về bồi thường thiệt hại:
Thiệt hại của Tổng Công ty Cổ phần Công trình Viettel; Tổng Công ty Viễn thông M và Tập đoàn Bưu chính V là do hành vi phạm tội của bị cáo B và Hoàng Văn T4 gây ra nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường theo yêu cầu của các bị hại. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 48 BLHS; khoản 1 các Điều 584, 585, 586, Điều 587, Điều 589 BLDS, buộc bị cáo Bùi Văn B và Hoàng Văn T4 phải thường cho các bị hại. Tuy nhiên, tại Bản án số 02/2019/HSST, ngày 25/4/2019 của Toà án quân sự Khu vực 1- Quân khu 2 xét xử Hoàng Văn T4, về phần dân sự: Bản án đã buộc Hoàng Văn T4 phải bồi thường cho Tổng công ty cổ phần công trình Vsố tiền 12.528.000 đồng với 03 lần trộm cắp tài sản tại 02 trạm BTS của Viettel, bồi thường cho Tổng công ty viễn thông M số tiền 21.196.800 đồng với 02 lần trộm cắp tài sản tại 02 trạm BTS của M trên địa bàn thành phố Lào Cai. Sau khi bị cáo B đầu thú, quá trình điều tra giải quyết vụ án này T4 đã nhận đứng ra bồi thường toàn bộ số tiền nói trên cho Vvà M theo quyết định của Bản án số 02/2019/HSST, sau đó sẽ thỏa thuận bồi thường hoặc giải quyết bằng vụ án dân sự khác với bị cáo B; còn 02 trạm BTS T4 và B cắt trộm dây tiếp địa của M (ngày 04/10/2018) tại huyện Bát Xát và của Vinaphone (ngày 10/10/2018) tại huyện B sẽ do bị cáo B bồi thường. Ngày 13/11/2023, bị cáo Bùi Văn B có đơn đề nghị sẽ một mình đứng ra bồi thường 02 trạm BTS mà B và T4 cắt trộm dây tiếp địa tại huyện Bát Xát và B.
[7.1] Trong quá trình điều tra và đơn xin xét xử vắng mặt đại diện theo ủy quyền của Tổng Công ty Cổ phần Công trình Vcó ý kiến: Về phần bồi thường thiệt hại do các bị cáo gây ra, nhất trí thực hiện theo quyết định của Bản án 02/2019/HSST, ngày 25/4/2019 của Toà án quân sự Khu vực 1 - Quân khu 2, về hình sự đề nghị tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
[7.2] Đại diện theo ủy quyền của Tổng Công ty Viễn thông M trong quá trình điều tra và đơn xin xét xử vắng mặt có ý kiến: Đối với hành vi trộm cắp của Bùi Văn B và Hoàng Văn T4 các ngày 30/9, 05/10/2018 trạm BTS tại phường Bắc Cường và trạm BTS tại phường Lào Cai phần dân sự đã được tuyên tại Bản án số 02/2019/HS-ST ngày 25/4/2019 của Tòa án quân sự Khu vực 1 - Quân khu 2 đề nghị thực hiện theo quyết định của Bản án; đối với hành vi trộm cắp của Bùi Văn B cùng Hoàng Văn T4 ngày 04/10/2018 tại thôn Tân Hồng, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Trung tâm mạng lưới M Miền Bắc - Tổng công ty Viễn thông M đã chủ động khắc phục sự cố để đảm bảo điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị nên không yêu cầu Bùi Văn B phải bồi thường thiệt hại; bị cáo B không có ý kiến khác. Đây là sự tự nguyện của các bên, nên HĐXX sẽ ghi nhận.
[7.3] Trong quá trình điều tra Đại diện theo ủy quyền của Tập đoàn Bưu chính V đồng ý để bị cáo Bùi Văn B đứng ra bồi thường và tại phiên tòa hai bên đã thỏa thuận và thống nhất với nhau về bồi thường cho Tập đoàn Bưu chính V với nội dung: Mặc dù, B và T4 cắt 04 đoạn dây có chiều dài là 39m dây tại trạm BTS Vinaphone đặt ở thôn L, xã Bản Phiệt, huyện B theo kết quả định giá thì 04 đoạn dây cáp Feeder 7/8 có tổng chiều dài 39m trị giá 1.649.700 đồng, 18 ốp cáp feeder trị giá 241.110 đồng (tổng 1.890.810 đồng). Tuy nhiên, tập đoàn phải khắc phục toàn bộ 4 đoạn Feeder 7/8 mỗi đoạn 45m tương đương 180m là khoảng cách từ đầu ra thiết bị phát sóng đến anten đảm bảo tính thống nhất của Feeder theo chiều dài thiết kế và thực tế của đoạn Feeder sử dụng tại trạm, có trị giá 7.614.000 đồng (theo kết quả định giá ngày 26/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B). Cho nên, tập đoàn yêu cầu B phải bồi thường số tiền là 7.614.000 đồng và 18 hộp ốp cáp trị giá 241.110 đồng; bị cáo B đồng ý và sẽ một mình thực hiện việc bồi thường 180m dây trị giá 7.614.000 đồng và 18 hộp ốp cáp trị giá 241.110 đồng (tổng số tiền là 7.855.110 đồng) cho Tập đoàn Bưu chính V. Đây là sự tự nguyện của các bên nên HĐXX sẽ ghi nhận. [8] Theo quy định tại khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Bùi Văn B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với số tiền phải bồi thường là: 7.855.110 đồng x 5% = 392.756 đồng.
Vì các lẽ trên, căn cứ điểm g khoản 2 Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình sự Tuyên bố bị cáo Bùi Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm b, g khoản 2 Điều 173; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; xử phạt Bùi Văn B 04 (bốn) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam, ngày 15/6/2023.
2. Về bồi thường thiệt hại Ghi nhận bị cáo Bùi Văn B và đại diện theo ủy quyền của bị hại Tập đoàn Bưu chính V đã thỏa thuận và thống nhất bồi thường cho Tập đoàn Bưu chính V số tiền 7.855.110 đồng (chưa thực hiện). Bị cáo Bùi Văn B tiếp tục phải thực hiện bồi thường theo thỏa thuận số tiền 7.855.110 (bảy triệu tám trăm năm mươi lăm nghìn một trăm mười) đồng cho Tập đoàn Bưu chính V.
Ghi nhận Tổng Công ty Viễn thông M không yêu cầu bị cáo Bùi Văn B phải bồi thường thiệt hại của trạm BTS M xảy ra ngày 04/10/2018 đặt tại thôn Tân Hồng, xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
3. Về án phí Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 BLTTHS, bị cáo Bùi Văn B phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 392.756 (ba trăm chín mươi hai nghìn bảy trăm năm mươi sáu) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29/11/2023) đối với bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa và trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án quân sự Quân khu 2.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm dây cáp truyền hình) số 11/2023/HS-ST
Số hiệu: | 11/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án quân sự |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về