TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 33/2022/HS-ST NGÀY 17/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 35/2022/TLST - HS ngày 06 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST - HS ngày 02 tháng 11 năm 2022 đối với các bị cáo:
Họ và tên: Cao Tấn L; Sinh ngày: 05/5/2006; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn HT, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Cao Văn B và bà: Nguyễn Thị H; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/7/2022, đến ngày 22/7/2022 được Cơ quan CSĐT Công an huyện Đông Sơn ra Quyết định trả tự do. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện có mặt tại phiên tòa.
Họ và tên: Nguyễn Duy M; Sinh ngày: 28/8/2005; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn TĐ, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Nguyễn Duy K và bà: Lê Thị O; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/7/2022, đến ngày 22/7/2022 được Cơ quan CSĐT Công an huyện Đông Sơn ra Quyết định trả tự do. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ủy ban nhân dân xã D, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa. Địa chỉ: Thôn Tân Đại, xã D, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá. Người đại diện theo pháp luật: Ông Mai Văn H; Chức vụ: Chủ tịch.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tài P; Chức vụ: Phó Chủ tịch, vắng mặt.
1, Người giám hộ cho bị cáo L là bà Nguyễn Thị H - Mẹ đẻ; Địa chỉ: Thôn HT, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hoá, có mặt.
2, Người giám hộ cho bị cáo M là bà Lê Thị O - Mẹ đẻ; Địa chỉ: Thôn T Đ, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hoá có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Cao Tấn L: Bà Nguyễn Thị Ngọc Tr - Trợ giúp viên pháp lý; Công tác tại: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa; Địa chỉ: Số 32, Đại lộ Lê Lợi, phường Điện Biên, TP Thanh Hóa, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Duy M: Bà Lê Thị P1 - Trợ giúp viên pháp lý; Công tác tại: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa; Địa chỉ: Số 32, Đại lộ Lê Lợi, phường Điện Biên, TP Thanh Hóa, có mặt.
- Người liên quan: Anh Nguyễn Văn L1, sinh năm: 2004; Địa chỉ: Thôn TĐ, xã ĐH, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 16/7/2022, Nguyễn Duy M và Cao Tấn L đi vào sân Ủy ban nhân dân (UBND) xã D, thuộc thôn Hiền Thư, xã D, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa để chơi. Sau đó, M và L đi ra phía sau hội trường đa năng để đi vệ sinh. Khi đi vệ sinh, M quan sát thấy bộ máy vi tính đang để phía trong hội trường đa năng, nên M nói với L: “Trong phòng có bộ máy vi tính kìa”. Nghe M nói vậy, L liền nói: “Tao thấy lâu rồi” và nói tiếp: “Có lấy không?”, M nói: “Sao cũng được”. Sau đó cả M và quay lại sân phía trước để chơi.
Khi đi lại sân phía trước, M đi chơi với Nguyễn Văn L1, sinh ngày 01/6/2004 và Lê Phú Đ, sinh ngày 26/4/2007 cùng ở thôn Tân Đại, xã Đông Hoà, huyện Đông Sơn, còn L ngồi chơi một mình tại sân UBND xã. Khi ngồi tại sân UBND xã, Lộc dùng điện thoại di động gọi cho Nguyễn Văn L1 hỏi có mua máy vi tính không? Khi nói chuyện, L1 hỏi L về nguồn gốc máy vi tính, L trả lời: “máy vi tính của bọn tao”, nên L1 đồng ý mua. L nói thêm: “Tối lấy”, Lương không nói gì thêm và thôi không nói chuyện với L nữa. Sau đó, L tiếp tục ngồi một mình chơi tại sân UBND xã.
Đến khoảng 22 giờ ngày 16/7/2022, Mạnh một mình quay lại sân UBND xã gặp L. Khi gặp M, L chỉ về phía sau UBND xã thì M hiểu ý L là vào trộm cắp máy vi tính nên cả hai đi đến nơi để bộ máy tính đã thấy lúc chiều. Khi đi lại khu Hội trường đa năng của xã, L dùng tay kéo và đẩy lớp cửa thứ nhất của hội trường, khi cửa mở ra, cả M và L đi vào trong. Khi đến lớp cửa thứ hai, do cửa khóa, nên L tiếp tục dùng tay để đẩy cửa nhưng không được, nên M dùng tay và người đẩy cửa. Khi cửa bật mở, cả M và L tiếp tục đi đến lớp cửa thứ ba, do cửa không khóa nên cả M và L đi vào phòng để máy tính và cả hai cùng nhau tháo rời các thiết bị điện và các dây nối giữa màn hình với cây máy tính. Khi các thiết bị điện và các dây nối đã tháo rời, M lấy một hộp giấy có sẵn trong phòng máy và bỏ bàn phím, chuột, cặp loa vào hộp giấy, L đưa màn hình vào hộp giấy. Sau đó, M ôm hộp giấy đựng màn hình, loa, bàn phím, chuột, còn L ôm cây máy tính đi qua cửa bên trái (hông trái hướng từ cánh gà hội trường nhìn xuống), cửa này mở được từ bên trong và đi ra Tượng đài liệt sỹ thuộc khuôn viên sân UBND xã để ngồi. Khi ra Tượng đài liệt sỹ, L gọi điện cho L1 để đến lấy máy tính. Sau đó, M ôm hộp giấy, L ôm cây máy tình trèo qua tường UBND xã.
M và L đưa bộ máy tính ra đoạn đường làng có ao, không có nhà dân rồi chờ L1. Sau khi L1 điều khiển xe mô tô đến thì M để hộp giấy đựng màn hình, chuột, bàn phím và loa lên xe của L1, rồi M điều khiển xe đèo L1 và L ngồi phía sau, L ôm cây máy tính và cùng nhau đi về hướng khu cánh đồng xã Đông Ninh để tránh người dân phát hiện và tránh Camera an ninh của xã. Khi đi ra khu vực cánh đồng xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn do đường bẩn nên L và L1 đi bộ, còn M điều khiển xe qua đoạn đường bẩn. Khi đi qua đoạn đường bẩn, cả M, L và L1 dừng lại để rửa chân thì L1 hỏi “Máy tính lấy ở đâu” thì M không trả lời, còn L nói “cứ yên tâm đi không lấy ở đâu”, sau đó L1 đưa cho L 1.500.000 đồng tiền mua máy tính như đã thỏa thuận. Sau khi nhận tiền, L đưa cho M cầm 500.000 đồng, sau đó M tiếp tục điều khiển xe đèo L1 và L cùng bộ máy vi tính đi về hướng UBND xã Đông Ninh, đi qua xã Đông Khê và đi qua xã Đông Minh của huyện Đông Sơn và vòng về xã D để về nhà L1. Khi về nhà, L1 cất bộ máy vi tính mới mua của M và L. Sau khi cất bộ máy tính xong, M, L1và L đi ăn tối. Sau đó, L1 đèo M và L ra đoạn đường cao tốc thuộc địa phận xã D, huyện Đông Sơn rồi L1 một mình về nhà đi ngủ.
Sáng ngày 17/7/2022, M và L đi bộ vào nhà L1 để nhờ L1 đưa ra xã Đông Minh để bắt xe đi Hà Nội. Tại đây, L1 nhờ M và L lắp bộ máy vi tính cho L1. Sau khi M và L lắp xong bộ máy tính, L1 liền hỏi nguồn gốc của bộ máy vi tính L1 đã mua của M và L thì được L và M cho biết là bộ máy tính đó lấy trộm tại Bưu điện xã D. Nghe M và L nói vậy, L1 liền nói: “Sợ dính vào Công an”, nhưng M và L nói: “Không sao cả”, nên L1 không nói gì. Sau đó, M và L chơi và ăn trưa và nghỉ tại nhà L1. Đến chiều ngày 17/7/2022 Lương điều khiển xe mô tô đèo M và L đi ra Quốc lộ 47, thuộc địa phận xã Đông Minh, huyện Đông Sơn để bắt xe đi Hà Nội, còn L1 đi về nhà.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 17/KL-HĐĐGTS ngày 20/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đông Sơn kết luận: Tại thời điểm giá trị thị trường tháng 7/2022, giá trị của tài sản được định giá tổng cộng là: 3.720.000 đồng. Cụ thể: 01 màn hình máy vi tính, màu đen, nhãn hiệu FPT đã qua sử dụng giá trị: 1.200.000 đồng; 01 cây máy vi tính, màu đen, nhãn hiệu FPT đã qua sử dụng giá trị: 2.100.000 đồng; 01 bàn phím máy vi tính, màu đen, nhãn hiệu FPT đã qua sử dụng giá trị: 120.000 đồng; 01 chuột máy vi tính, màu đen, nhãn hiệu ESTONE đã qua sử dụng giá trị: 50.000 đồng; 01 cặp loa nhỏ dùng nghe nhạc, hình chữ nhật màu nâu đã qua sử dụng giá trị: 250.000 đồng.
Về vật chứng: Sáng ngày 18/7/2022 Nguyễn Văn L1 đã mang 01 màn hình máy vi tính, 01 cây máy vi tính, 01 bàn phím máy tính, 01 chuột máy tính của hãng FPT, 02 chiếc loa để bàn kết nối với máy tính mà L1 đã mua của M và L giao nộp cho Cơ quan Công an. Ngày 20/7/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đông Sơn đã trả lại cho chủ sở hữu là UBND xã D.
Về dân sự: Trong quá trình điều tra vụ án, UBND xã D không đề nghị bồi thường gì thêm về dân sự.
Về số tiền 1.500.000 đồng mà Nguyễn Văn L1 dùng để mua bộ máy tính do M và L trộm cắp được, L1 không yêu cầu L và M phải bồi thường.
Tại bản Cáo trạng số: 36/CT-VKSĐS ngày 05/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Sơn đã truy tố các bị cáo Cao Tấn L và Nguyễn Duy M về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.
- Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Về phần hình sự: Đề nghị tuyên các bị cáo Cao Tấn L và Nguyễn Duy M phạm tội: Trộm cắp tài sản.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Các Điều 58; 90; 91; 96 BLHS đề nghị xử phạt:
- Bị cáo Cao Tấn L từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi tư) tháng giáo dục tại trường giáo dưỡng;
- Bị cáo Nguyễn Duy M từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng giáo dục tại trường giáo dưỡng.
- Lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án: Các bị cáo Cao Tấn L và Nguyễn Duy M đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
- Ý kiến của người giám hộ cho bị cáo L: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho cháu Lộc Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo L: Nhất trí về tội danh như Cáo trạng truy tố. Đề nghị HĐXX cho bị cáo Lộc mức 18 (mười tám) tháng giáo dục tại Trường giáo dưỡng.
- Ý kiến của người giám hộ cho bị cáo M: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho cháu M.
- Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo M: Nhất trí về tội danh như Cáo trạng truy tố. Đề nghị HĐXX cho bị cáo M mức 15 (mười lăm) tháng giáo dục tại Trường giáo dưỡng.
Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của các bị cáo, ý kiến người giám hộ, quan điểm của trợ giúp viên pháp lý, ý kiến của người liên quan và của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến nào hoặc khiếu nại về hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo Cao Tấn L và Nguyễn Duy M: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai báo thành khẩn, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình: Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên vào khoảng 22 giờ ngày 16/7/2022, Nguyễn Duy M và Cao Tấn L đã có hành vi đột nhập vào hội trường của UBND xã D trộm cắp 01 màn hình máy vi tính màu đen nhãn hiệu FPT, 01 cây máy vi tính, màu đen nhãn hiệu FPT, 01 bàn phím máy vi tính màu đen nhãn hiệu FPT, 01 chuột máy vi tính màu đen nhãn hiệu ESTONE và 01 cặp loa nhỏ dùng nghe nhạc hình chữ nhật màu nâu với tổng giá trị là 3.720.000đ (ba triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng).
Lời khai nhận tội của các bị cáo Cao Tấn L và Nguyễn Duy M phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của các bị cáo Cao Tấn L và Nguyễn Duy M có đủ dấu hiệu cấu thành tội: Trộm cắp tài sản. Tội danh và khung hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS. Vì vậy Cơ quan CSĐT khởi tố các bị cáo, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Sơn truy tố các bị cáo về hành vi phạm tội và tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Về nguyên nhân, điều kiện phạm tội:
Nguyên nhân khách quan: Do sự quản lý tài sản của chủ sở hữu không chặt chẽ nên làm nảy sinh ý đồ và hành vi phạm tội của các bị cáo.
Nguyên nhân chủ quan: Các bị cáo Cao Tấn L và Nguyễn Duy M là những thiếu niên hư, thường xuyên chơi bời lêu lổng, thiếu sự giám sát, giáo dục của gia đình, không chịu khó học hành tu dưỡng mà chỉ muốn hưởng lợi trên thành quả lao động của người khác.
Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản.
[4]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội; Căn cứ vào nhân thân và môi trường sống của các bị cáo, xét thấy cần đưa L và M vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ thì việc áp dụng biện pháp giáo dục các bị cáo tại Trường giáo dưỡng là cần thiết để đảm bảo lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ các bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và có tính chất phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt bởi lý do: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo; Sau khi phạm tội các bị cáo đã đến Cơ quan Công an đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Xét vai trò của từng bị cáo thấy rằng: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng ở mức độ giản đơn, các bị cáo không có sự phân công, phân nhiệm. Trong đó, Lộc là người khởi xướng rủ rê và tham gia tích cực vào việc trộm cắp tài sản nên giữ vai trò đầu vụ, còn Mạnh đã có hành vi tham gia tích cực nên giữ vai trò sau.
[5]. Về phần trách nhiệm dân sự UBND xã D đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì nên HĐXX không xem xét.
[6]. Đối với đề nghị của người giám hộ, trợ giúp viên pháp lý và Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Sơn là có căn cứ, nên HĐXX cần chấp nhận.
[7]. Liên quan đến vụ án: Đối với Nguyễn Văn L1 đã có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tuy nhiên, khi mua bộ máy tính thì L1 không biết là do M và L trộm cắp mà có. Khi biết được bộ máy tính là do M và L trộm cắp, L1 đã chủ động đem đến giao nộp cho Cơ quan Công an. Do vậy, không cần thiết phải xử lý hình sự mà cần xử lý bằng biện pháp hành chính là phù hợp. Đối với số tiền 1.500.000đ Nguyễn Văn L1 mua máy tính do Cao Tấn L và Nguyễn Duy M trộm cắp, anh L1 không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên HĐXX không xem xét.
[8]. Bị cáo, bị hại, người liên quan được quyền kháng cáo.Viện kiểm sát nhân dân được quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.
[9]. Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Về điều luật áp dụng: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Các Điều 58; 90; 91; 96 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 331; 333; 336; 337; Khoản 6 Điều 423; khoản 1 Điều 430 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
2. Về tội danh: Tuyên bố: Các bị cáo Cao Tấn L và Nguyễn Duy M phạm tội: Trộm cắp tài sản.
3.1. Áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng số 2 - Ninh Bình đối với Cao Tấn L. Thời gian chấp hành tại Trường giáo dưỡng là 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày bị cáo bị tạm giữ để đưa đi Trường giáo dưỡng.
3.2. Áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng số 2 - Ninh Bình đối với Nguyễn Duy M. Thời gian chấp hành tại Trường giáo dưỡng là 15 (mười lăm) tháng, kể từ ngày bị cáo bị tạm giữ để đưa đi Trường giáo dưỡng.
4. Về án phí: Buộc các bị cáo Cao Tấn L và Nguyễn Duy M, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm cắp máy vi tính) số 33/2022/HS-ST
Số hiệu: | 33/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về