Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm bao lì xì) số 05/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 05/2023/HS-ST NGÀY 16/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh N, sinh năm 1998, tại tỉnh Đồng Tháp; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp P.T, xã P.L, huyện P, tỉnh An Giang; chỗ ở trước khi bị khởi tố: ấp M.T, xã M.H, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T2, sinh năm 1976 và bà Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1981; Bị cáo chưa lập gia đình, không vợ, con.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/7/2022 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Ông Hồ Chánh T, sinh năm 1991; nơi cư trú: ấp B, xã M.H, huyện C, tỉnh An Giang, (có mặt).

- Bà Lại Ngọc T1, sinh năm 1991; nơi cư trú: ấp B, xã M.H, huyện C, tỉnh An Giang, (có mặt).

Người làm chứng:

- Ông Lại Văn Th, sinh năm 1959, (vắng mặt).

- Bà Nguyễn Thị Mỹ Th2 (Muốt), sinh năm 1965, (vắng mặt).

- Bà Lê Thị Thanh T3, sinh năm 1983, (vắng mặt).

- Ông Đặng Thanh B, sinh năm 1977, (vắng mặt).

- Ông Trần Văn H, sinh năm 1979, (vắng mặt).

- Ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1986, (vắng mặt).

- Ông Trương Vỉnh K, sinh năm 1983, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài, nên Nguyễn Thanh N nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của người khác. Khoảng 01 giờ ngày 07/7/2022, N đi bộ từ nhà của Lê Thị Thanh T3 (cô ruột của N) tại ấp M.T, xã M.H đến nhà của Hồ Chánh T và Lại Ngọc T1 (vợ của T) ở ấp B, xã M.H.Đ; N biết bên hông phải nhà của T có một lỗ trống, nên lén chui vào bên trong, đi đến phòng để quần áo của T (không khóa cửa), dùng tay kéo ngăn tủ nhựa màu xanh, lấy trộm 01 bao lì xì bên trong có 300.000 đồng; N kéo ngăn tủ tiếp theo thấy có 01 túi vải màu đỏ bên trong có 02 chiếc nhẫn vàng 24 kara, nên N lấy trộm 01 chiếc, trọng lượng 02 chỉ (còn 01 chiếc N không lấy, để lại túi vải màu đỏ), rồi đi về nhà của T3 cất giấu chiếc nhẫn, riêng 300.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Đến khoảng 00 giờ ngày 28/7/2022, N tiếp tục đến nhà của T và T, lén chui qua lỗ trống bên hông phải để vào nhà tìm tài sản lấy trộm, nhưng khi mới vào được nhà, chưa lấy được tài sản gì thì bị T phát hiện, Nhàn bỏ chạy. Sự việc được trình báo đến Công an xã M.H, khoảng 09 giờ cùng ngày, N đến đầu thú, giao nộp 01 chiếc nhẫn vàng 24 kara đã lấy trộm của T và T1 vào ngày 07/7/2022.

Quá trình điều tra thu giữ và xử lý vật chứng: 01 chiếc nhẫn vàng 24 kara trọng lượng 02 chỉ, đã trao trả cho Lại Ngọc T1.

Tại Kết luận định giá tài sản số 36/KL-HĐĐG.TTHS ngày 03/8/2022; Kết luận định giá tài sản số 51/KL-HĐĐG.TTHS ngày 13/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C: 01 (một) chiếc nhẫn vàng 24 kara, trọng lượng 02 chỉ, trị giá 10.490.000 đồng; 01 (một) con heo làm bằng đất nung có giá trị 105.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 55/CT-VKSCM ngày 16/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, - Bị cáo thừa nhận do không có tiền tiêu xài, nên nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của người khác. Để thực hiện hành vi, khoảng 01 giờ ngày 07/7/2022, bị cáo đi bộ từ nhà của cô ruột là Lê Thị Thanh T3 đến nhà của bị hại T, T1 (vợ của T) tại ấp B, xã M.H, biết bên hông phải nhà của T có một lỗ trống, nên lén chui vào bên trong, đến phòng để quần áo của T (không khóa cửa), dùng tay kéo ngăn tủ nhựa màu xanh, lấy trộm 01 bao lì xì bên trong có 300.000 đồng, tiếp theo bị cáo kéo ngăn tủ thấy có 01 túi vải màu đỏ bên trong có 02 chiếc nhẫn vàng 24 kara, bị cáo lấy trộm 01 chiếc, trọng lượng 02 chỉ (còn 01 chiếc N không lấy, để lại túi vải màu đỏ), rồi đi về nhà của T3 cất giấu chiếc nhẫn, riêng 300.000 đồng tiêu xài cá nhân hết. Tiếp đó, khoảng 00 giờ ngày 28/7/2022, bị cáo quay trở lại nhà T và T1, lén chui qua lỗ trống bên hông phải để vào nhà tìm tài sản lấy trộm, nhưng khi mới vào được nhà, chưa lấy được tài sản gì thì bị T phát hiện, bỏ chạy. Biết sự việc đã bị phát hiện, bị cáo đến Công an xã đầu thú giao nộp 01 chiếc nhẫn vàng 24 kara đã lấy trộm của T và T1 vào ngày 07/7/2022.

- Bị hại Hồ Chánh T, Lại Ngọc T1 (vợ của T) khai, T mua 05 chiếc nhẫn vàng 24 kara, mỗi chiếc có trọng lượng 02 chỉ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus giao cho T1 quản lý, sử dụng, T1 cất giữ số tài sản này cùng với 01 chiếc vòng vàng 18 kara, trọng lượng 0,5 chỉ; 01 chiếc nhẫn vàng trắng, trọng lượng 02 gam và số tiền 300.000 đồng để trong bao lì xì, T1 không nói cho ai biết nơi cất giữ tài sản. Khoảng 05 giờ ngày 07/7/2022, T và T1 phát hiện bị mất trộm các tài sản mà T1 cất giữ, chỉ còn 01 chiếc nhẫn vàng 24 kara, trọng lượng 02 chỉ để trong túi vải màu đỏ. Do không biết đối tượng nghi ngờ nên không trình báo Công an. Đến khoảng 00 giờ ngày 28/7/2022, đang ngủ thì nghe tiếng động, ra xem thấy bị cáo lẻn vào nhà, tri hô thì bị cáo bỏ chạy, qua kiểm tra thì lần này không bị mất tài sản gì và sự việc được trình báo đến Công an; đã nhận lại 01 chiếc nhẫn vàng 24 kara, trọng lượng 02 chỉ. Yêu cầu bị cáo bồi thường 03 chiếc nhẫn vàng 24 kara, mỗi chiếc có trọng lượng 02 chỉ; 01 chiếc vòng vàng 18 kara, trọng lượng 0,5 chỉ; 01 chiếc nhẫn vàng trắng, trọng lượng 02 gam và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus. Đối với, số tiền 300.000 đồng bị T lấy trộm, 03 chiếc nhẫn vàng 24 kara, mỗi chiếc có trọng lượng 02 chỉ; 01 chiếc vòng 18 kara, trọng lượng 0,5 chỉ; 01 chiếc nhẫn vàng trắng, trọng lượng 02 gam và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus do không chứng minh được việc bị cáo có lấy trộm nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C thực hành công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất vụ án, mức độ, hậu quả từ hành vi phạm tội của bị cáo tác động đến xã hội, phân tích các tình tiết định tội, định khung hình phạt, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu Luận tội giữ nguyên quyết định Cáo trạng truy tố và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự, áp dụng khoản 1 điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh N từ 09 tháng đến 01 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự, bị hại T, T1 đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường bất cứ khoản tiền nào khác, không đề cập.

Về hình phạt bổ sung, hoàn cảnh khó khăn, không nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: không đề cập.

Sau khi nghe quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo không tranh luận, xác định Cáo trạng truy tố đúng tội, không oan, nói lời sau cùng bị cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, không khiếu nại các chứng cứ được thu thập. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Những người làm chứng Lại Văn Th, Nguyễn Thị Mỹ Th2, Lê Thị Thanh T3, Đặng Thanh B, Trần Văn H, Nguyễn Hoàng V, Trương Vỉnh K, vắng mặt không rõ lý do. Đối với những người này, đã được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng theo đúng quy định; được Cơ quan điều tra thu thập lời khai chi tiết, toàn diện, đánh giá sự vắng mặt của những người nêu trên không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, hoàn toàn phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng về toàn bộ diễn biến về thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội, các tình tiết khác của vụ án; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh, sơ đồ hiện trường được lập vào ngày 28/7/2022; phù hợp tang vật thu giữ do bị cáo giao nộp. Ngoài ra, còn phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ.

Đã đủ căn cứ xác định, không có nghề nghiệp, cần tiền tiêu xài, nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của người khác nên khoảng 01 giờ ngày 07/7/2022, bị cáo đi bộ từ nhà của cô ruột Lê Thị T3 (bị cáo ở nhờ để làm thuê) đến nhà của bị hại T, T1, do ở cùng xóm nên bị cáo biết phía bên phải nhà của T có một lỗ trống, nên chui vào bên trong, đến phòng để quần áo, dùng tay kéo ngăn tủ nhựa màu xanh, lấy trộm 01 bao lì xì bên trong có 300.000 đồng, kéo ngăn tủ nhìn thấy có 01 túi vải màu đỏ bên trong có 02 chiếc nhẫn vàng 24 kara, bị cáo lấy 01 chiếc, còn 01 chiếc không lấy với mục đích để người trong nhà nghi ngờ trộm với nhau; sau đó, bị cáo để lại túi vải màu đỏ tại vị trí ban đầu, bị cáo tiếp tục lấy được một con heo đất nhưng do quay trở ra ngoài theo đường cửa phía sau, khe cửa nhà hẹp, sợ heo đất bể bị phát hiện nên bị cáo để lại phía dưới ngay cánh cửa nhà rồi đi về nhà của T3 cất giấu chiếc nhẫn, riêng 300.000 đồng tiêu xài cá nhân hết. Tiếp sau đó, khoảng 00 giờ ngày 28/7/2022, bị cáo quay trở lại nhà T và T1, chui qua lỗ trống bên hông phải để vào nhà tìm tài sản lấy trộm (mục đích lấy con heo đất), khi mới vào được nhà,thì bị phát hiện, bỏ chạy. Biết sự việc đã bị phát hiện, bị cáo đến Công an xã đầu thú giao nộp 01 chiếc nhẫn vàng 24 kara đã lấy trộm của T, T1 vào ngày 07/7/2022. Bị cáo thừa nhận hành vi trộm số tiền 300.000 đồng; 01 chiếc nhẫn vàng 24 kara, 02 chỉ, trị giá 10.490.000; 01 con heo đất trị giá 105.000 đồng, bên trong có số tiền 3.367.000 đồng; nhận thấy hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, xin xem xét giả nhẹ hình phạt.

Với phân tích trên, Hội đồng xét xử xác định: hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh N đủ yếu tố cấu thành tội“Trộm cắp tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thanh N về tội danh, điểm, khoản, Điều luật viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Bị cáo N là người trưởng thành, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng bất chấp, cố ý thực hiện với ý thức mong muốn hậu quả xảy ra. Với bản tính tha hóa, lười lao động, muốn có tiền để tiêu xài cá nhân mà không phải bỏ ra công sức lao động, bị cáo nảy sinh ý định lấy trộm tài sản người khác, với cách thức, thủ đoạn lợi dụng điêm khuya, sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu, đột nhập vào nhà bị hại tìm tài sản lấy trộm; khi phát hiện nhà bị hại khóa cửa ngoài, bị cáo tiếp cận đột nhập vào nhà thông qua khoảng trống bên hông phải nhà, vào nhà tìm tài sản lấy trộm, sau khi lấy được tài sản, đối với con heo đất, bị cáo xác định biết trong heo có tiền nhưng không lấy được vì khi quay trở ra ngoài khe cửa hẹp sợ heo đất bị bể sẽ bị phát hiện nên bị cáo để lại phía dưới cạnh cánh cửa, đã dịch chuyển tài sản, hành vi phạm tội đã hoàn thành, vì vậy bị cáo cũng phải chịu trách nhiệm với số tiền mà bị hại bỏ vào ống heo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây lo sợ, bất an trong nhân dân trước tình hình các tội phạm xâm phạm về quyền sở hữu, mà cụ thể là trộm cắp tài sản diễn ra ngày càng táo bạo, liều lĩnh như hiện nay.

Với những nhận định, đánh giá trên, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt khi tái hòa nhập cộng đồng, đồng thời có tác dụng răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện được sự ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản thu hồi trao trả cho bị hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc là căn cứ giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[5] Về đánh giá hành vi khác có liên quan: Đối với, hành vi T và T1 khai, còn bị mất 03 chiếc nhẫn vàng 24 kara, 01 chiếc vòng vàng 18 kara, 01 chiếc nhẫn vàng trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus, yêu cầu N bồi thường, nhưng N không thừa nhận lấy trộm, T và T1 không cung cấp được chứng cứ để chứng minh, nên không có cơ sở quy kết.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất trộm, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất cứ khoản tiền nào khác nên ghi nhận, không xem xét về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: Đánh giá bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không nghề nghiệp cụ thể, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ các vật chứng, việc Cơ quan điều tra tiến hành trao trả cho bị hại là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên không đề cập.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

[10] Quan điểm luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Về tội danh và hình phạt áp dụng:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh N 10 tháng tù (mười tháng). Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 28/7/2022.

2. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: không đề cập.

4. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm bao lì xì) số 05/2023/HS-ST

Số hiệu:05/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Do không có tiền tiêu xài, nên Nguyễn Thanh N nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của người khác. Khoảng 01 giờ ngày 07/7/2022, N đi từ nhà của Lê Thị Thanh T3 (cô ruột của N) đến nhà của Hồ Chánh T và Lại Ngọc T1 (vợ của T). N biết bên hông phải nhà của T có một lỗ trống, nên lén chui vào bên trong, đi đến phòng để quần áo của T, dùng tay kéo ngăn tủ nhựa, lấy trộm 01 bao lì xì bên trong có 300.000 đồng; N kéo ngăn tủ tiếp theo lấy trộm 01 chiếc, trọng lượng 02 chỉ rồi đi về nhà của T3 cất giấu chiếc nhẫn, riêng 300.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Đến khoảng 00 giờ ngày 28/7/2022, N tiếp tục đến nhà của T và T, lén chui qua lỗ trống bên hông phải để vào nhà tìm tài sản lấy trộm, nhưng khi mới vào được nhà, chưa lấy được tài sản gì thì bị T phát hiện, Nhàn bỏ chạy. Sự việc được trình báo đến Công an xã M.H, khoảng 09 giờ cùng ngày, N đến đầu thú, giao nộp 01 chiếc nhẫn vàng 24 kara đã lấy trộm của T và T1.

Tòa án tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh N 10 tháng tù.