TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 29/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2024/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Minh H, sinh năm 1967 tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp R L, xã P T, huyện P T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Đinh Thị N vợ: Huỳnh Mỹ T, sinh năm 1967 (đã ly hôn), con: 01; tiền án: Ngày 23/10/1998, bị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2000; Ngày 10/01/2005, bị Toà án nhân dân huyện Phú Tân xử phạt 30 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/11/2006; Ngày 16/7/2009, bị Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/9/2012; Ngày 24/12/2020, bị Toà án nhân dân huyện Phú Tân xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/12/2022. Ngoài ra, vào ngày 18/12/1992 bị Toà án nhân dân huyện Cái Nước xử phạt 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã chấp hành xong; tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/12/2023 cho đến nay (có mặt).
- Người bị hại: Anh Tô Văn K, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Ấp C N, xã T T, huyện Đ D, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án : Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1964; Nơi cư trú: Ấp R L, xã P T, huyện P T, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18/12/2023, Nguyễn Minh H rủ Nguyễn Văn B (sinh năm 2001) là cháu gọi H bằng chú ruột đi giăng lưới bắt cá dưới sông thì B đồng ý. H điều khiển phương tiện vỏ máy chở B xuất phát đi từ nhà ở ấp R L, xã Phú T, huyện P T đến các tuyến sông thuộc địa bàn huyện Cái Nước rồi chạy dọc qua tuyến sông thuộc địa bàn huyện Đ D.
Đến khoảng 02 giờ ngày 19/12/2023, khi đến đoạn sông thuộc ấp C N, xã T T, huyện Đ D thì trời đã tối, H không xác định được hướng đi nên tắt máy. Lúc này, H nghe tiếng gà gáy trên nhà anh Tô Văn K nên H nói với B lên bắt trộm gà đem về bán thì B đồng ý. H ghé phương tiện vỏ máy vào bến rồi trực tiếp đi lên chuồng lợn nhà anh K lén lút lấy trộm 03 con gà trống nòi (gồm 01 con gà xám trọng lượng 2.62kg, 01 con gà bướm trọng lượng 2.49kg và 01 con gà bướm trọng lượng 2.38kg) đang úp trong bội đem xuống cho B bỏ vào bao. Sau đó, cả hai tiếp tục điều khiển phương tiện vỏ máy chạy đi một đoạn thì bị lực lượng Công an xã Q P tuần tra trên sông phát hiện bắt giữ và tạm giữ tài sản là 03 con gà trống nòi.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 53/KL-ĐGTS ngày 28/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Đ D, kết luận: 03 con gà nòi trọng lượng 7,49kg có giá trị 898.800 đồng.
Vật chứng thu giữ gồm: 03 con gà trống nòi trọng lượng 7,49kg; 01 vỏ composite Quốc Đãm, dài 5m4; 01 máy Honda, số GX 340.337 cm3; 05 cái túi lưới màu xanh; 01 cây dao màu trắng bằng kim loại; 01 cây kéo bằng kim loại; 02 ống điếu (cù điếu) bằng kim loại; 03 cây cờ lê bằng kim loại; 01 cây mỏ lếch bằng kim loại; 02 cây đục sắc, mỗi cây dài 31cm; 01 túi sách có dòng chữ V8283; 02 cây kìm bằng kim loại. Riêng 03 con gà trống nòi trọng lượng 7,49kg đã giao trả lại cho anh Tô Văn K.
Bản Cáo trạng số: 15/CT-VKS ngày 02/02/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát bảo vệ toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản nên không đặt ra xem xét.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bà Nguyễn Thị Hạnh 01 vỏ composite Quốc Đãm, dài 5m4; 01 máy Honda, số GX 340.337 cm3; 05 cái túi lưới màu xanh; 01 cây dao màu trắng bằng kim loại; 01 cây kéo bằng kim loại; 02 ống điếu (cù điếu) bằng kim loại; 03 cây cờ lê bằng kim loại;
01 cây mỏ lếch bằng kim loại; 02 cây đục sắc, mỗi cây dài 31cm; 01 túi sách có dòng chữ V8283; 02 cây kìm bằng kim loại.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đầm Dơi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh H thừa nhận hành vi phạm tội: Vào khoảng 02 giờ, ngày 19/12/2023 lợi dụng đêm khuya thiếu sự quản lý của người bị hại, bị cáo lén lút thực hiện hành vi trộm của anh Tô Văn K 03 con gà trống nồi. Giá trị tài sản theo biên bản định giá là 898.800 đồng. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, các chứng cứ khác có tại hồ sơ. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng số 15/CT- VKS ngày 02 tháng 02 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất và mức độ về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Khi phạm tội bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là xâm phạm đến quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ, là vi phạm pháp luật hình sự. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Nguyên nhân phạm tội của bị cáo là không muốn lao động mà vẫn mà muốn được hưởng thụ thành quả lao động của người khác; động cơ và mục đích phạm tội của bị cáo là để có tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi vi phạm của bị cáo còn gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Ngoài ra, bị cáo có cha, mẹ ruột được tặng huân chương kháng chiến chống Mỹ; bà ngoại là mẹ Việt Nam anh hùng; dì, cậu và bác ruột là liệt sỹ. Do đó, bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, trước đó đã bị xử phạt về tội trộm cắp tài sản nhưng chưa được xoá án tích mà vẫn tiếp tục thực hiện hình vi phạm tội.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có xem xét đầy đủ hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự để áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện học tập, lao động trở thành người công dân có ích cho xã hội.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bà Nguyễn Thị Hạnh 01 vỏ composite Quốc Đãm, dài 5m4; 01 máy Honda, số GX 340.337 cm3; 05 cái túi lưới màu xanh; 01 cây dao màu trắng bằng kim loại; 01 cây kéo bằng kim loại; 02 ống điếu (cù điếu) bằng kim loại; 03 cây cờ lê bằng kim loại;
01 cây mỏ lếch bằng kim loại; 02 cây đục sắc, mỗi cây dài 31cm; 01 túi sách có dòng chữ V8283; 02 cây kìm bằng kim loại.
(Vật chứng trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi quản lý).
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2023.
Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bà Nguyễn Thị H 01 vỏ composite Quốc Đãm, dài 5m4; 01 máy Honda, số GX 340.337 cm3; 05 cái túi lưới màu xanh; 01 cây dao màu trắng bằng kim loại; 01 cây kéo bằng kim loại; 02 ống điếu (cù điếu) bằng kim loại; 03 cây cờ lê bằng kim loại; 01 cây mỏ lếch bằng kim loại; 02 cây đục sắc, mỗi cây dài 31cm; 01 túi sách có dòng chữ V8283; 02 cây kìm bằng kim loại.
(Vật chứng trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi quản lý).
Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Minh H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (trộm 3 con gà) số 08/2024/HS-ST
Số hiệu: | 08/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về