Bản án về tội trộm cắp tài sản số 99/2020/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 99/2020/HS-PT NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21/7/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2020/TLPT-HS ngày 18/6/2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2020/HS-ST ngày 11/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn T (T1), sinh ngày 06 tháng 5 năm 1998; Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Q và bà Phan Thị Q (Đều còn sống); Có vợ là Lê Thị Thuý L và có 02 con (lớn nhất sinh năm 2018 và nhỏ nhất sinh năm 2020); Tiền án, tiền sự: Chưa;

Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 26/11/2019, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô BKS 92D1- 6xx.xx đi đến nhà của anh Nguyễn Đức D để đưa tiền đặt cọc nhạc đám cưới cho anh D. Khi đến nơi, T thấy nhà anh D cửa mở nhưng không có ai ở trong nhà, T nhìn thấy một cây đàn Organ được bọc trong một bao da màu đỏ đang để trước hiên ngay cửa chính. Lúc này T nảy sinh ý định chiếm đoạt cây đàn nói trên để mang về nhà sử dụng, T quan sát xung quanh không có ai, nên đã đi đến để lấy cây đàn Organ. T đeo cây đàn ra phía sau lưng của mình và điều khiển xe mô tô BKS 92D1 – 6xx.xx để đi về nhà. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, anh D đi công việc về thì phát hiện cây đàn Organ của mình bị mất nên anh D có gọi điện thoại cho T hỏi là có lấy cây đàn không, nhưng T trả lời là không lấy. Sau khi lấy được cây đàn nêu trên, vì sợ người khác phát hiện nên Nguyễn Văn T đã lên trang “Chợ tốt” để mua một túi bọc da màu đen về thay thế cho túi bọc da màu đỏ của cây đàn mà mình đã trộm cắp được. Đến ngày 10/12/2019, Công an triệu tập Nguyễn Văn T lên trụ sở làm việc thì T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình.

Theo Kết luận giám định số 60/HĐĐG ngày 23/12/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Hoà Vang kết luận:

- 01 cây đàn Organ hiệu Yamaha PSR950 có giá trị tại thời điểm trộm cắp là 16.000.000đ (Mười sáu triệu đồng).

- 01 vỏ bọc cây đàn bằng da màu đỏ có giá trị tại thời điểm trộm cắp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Tổng giá trị T sản bị chiếm đoạt là 16.300.000đ (Mười sáu triệu, ba trăm ngàn đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2020/HS-ST ngày 11/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp T sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 26/5/2020, bị cáo Nguyễn Văn T có đơn kháng cáo với nội dung: Xin cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc vợ, con mới sinh.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Về nội dung: Xét về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy: Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2020/HS-ST ngày 11/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp T sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, không nặng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn T giữ nguyên kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đơn kháng cáo, để giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các T liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó HĐXX có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 26/11/2019, Nguyễn Văn T đã có hành vi lén lút trộm cắp một cây đàn Organ hiệu Yamaha PSR950 cùng một vỏ bọc cây đàn bằng da màu đỏ của ông Nguyễn Đức Dư tại thôn Dương Sơn, xã Hoà Châu, huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng. Tổng giá trị T sản mà Nguyễn Văn T đã chiếm đoạt của bị hại là 16.300.000đ (Mười sáu triệu, ba trăm ngàn đồng). Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2020/HS-ST ngày 11/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp T sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo, HĐXX thấy rằng: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực, sức khoẻ để lao động kiếm sống nhưng không lo tu chí làm ăn mà lợi dụng sự sơ hở của người bị hại để chiếm đoạt T sản của họ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu T sản của người khác được pháp luật bảo vệ. đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Do đó, đối với bị cáo phải xử lý nghiêm, việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù có thời hạn và cách ly ra ngoài xã hội một thời gian cải tạo, giáo dục, răn đe đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung là cần thiết. Xét Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định pháp luật, đồng thời xử phạt bị cáo mức án 06 (sáu) tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới phát sinh. Do đó, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa là phù hợp.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm a Khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)

Xử phạt: Nguyễn Văn T, (): 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp T sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 99/2020/HS-PT

Số hiệu:99/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về