Bản án về tội trộm cắp tài sản số 98/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 98/2022/HS-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 77/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Quốc T, sinh năm 1976 tại tỉnh Quảng Ngãi; Nơi đăng kí thường trú: Đội X, thôn NT, xã BC, huyện BS, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc Đ và bà Nguyễn Thị M.

Tiền án:

- Ngày 04/5/2000, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 03 năm tù về tội Cố ý gây thương tích tại Bản án số 84/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/7/2004.

- Ngày 26/5/2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 07 năm tù về tội Cướp giật tài sản tại Bản án số 112/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 07/8/2011.

- Ngày 26/9/2014, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 376/HSST.

- Ngày 17/02/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương xử phạt 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 22/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/4/2017.

- Ngày 06/9/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 227/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/02/2018.

- Ngày 05/3/2019, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 50/2019/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/01/2020.

- Ngày 04/11/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 296/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/6/2021.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

Ngày 27/5/1996, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân tại Bản án số 08/HSST.

Ngày 08/9/1999, bị Tòa án nhân dân huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xử phạt 24 tháng tù về tội Cướp giật tài sản của công nhân tại Bản án số 55/HSST.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Trần Thị H, sinh năm: 1970; nơi đăng ký thường trú: Y, khu phố U, phường AP, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trần Văn H, sinh năm: 1984; nơi đăng ký thường trú: Thôn TH, xã TD, huyện BL, tỉnh Hà Nam; tạm trú: M đường DT, khu phố A, phường AP, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Bà Cao Thị Ng, sinh năm: 1973; nơi đăng ký thường trú: Thôn ĐT, xã TD, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Vắng mặt.

Người làm chứng:

- Ông Trần Văn S, sinh năm: 1973. Vắng mặt.

- Ông Hào Văn N, sinh năm: 1966. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 11/11/2021, Trần Quốc T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen đỏ xám, biển số 98B1-882.93 đi đến địa chỉ số 108B/2, khu phố 1B, phường An Phú, thành phố Thuận An thì phát hiện bên trong tiệm tạp hóa bà Trần Thị H đang nằm ngủ, trên kệ có để 01 xô nhựa màu xanh nắp màu đỏ cao khoảng 25cm bên trong đựng số tiền 870.000 đồng nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. T dựng xe mô tô bên đường, đi bộ vào trong tiệm tạp hóa lấy cái xô đựng tiền cầm trên tay đi ra ngoài treo lên ba ga xe mô tô. Khi T vừa ngồi lên xe chuẩn bị điều khiển bỏ chạy thì ông Trần Văn S là em ruột bà H phát hiện truy hô. T bỏ lại xe mô tô và 01 cái xô bên trong có tiền lại, chạy bộ vào đường cụt, leo hàng rào vào công ty TNHH I-HOA CHEMICAL, địa chỉ khu phố 1B, phường An Phú, thành phố Thuận An để trốn thì bị bảo vệ công ty cùng ông Sơn bắt giữ báo cho Công an phường An Phú đến đưa T cùng tang vật về trụ sở làm việc. Qua xác minh nhân thân lai lịch, Trần Quốc T đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản nhưng chưa được xóa án tích nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã bắt khẩn cấp đối với Trần Quốc T.

Căn cứ biên bản định giá tài sản và kết luận định giá tài sản ngày 02/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận: 01 (một) xô màu xanh có nắp màu đỏ có trị giá 50.000 đồng.

Tang vật thu giữ: 01 (một) cái xô màu xanh có nắp màu đỏ, bên trong có số tiền 870.000 đồng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen đỏ xám, biển số:

98B1-882.93.

Bản Cáo trạng số 76/CT-VKS-TA ngày 02/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Trần Quốc T về tội trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Cáo trạng và đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt Trần Quốc T mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Bị cáo Trần Quốc T thừa nhận đã thực hiện hành vi đúng như Cáo trạng truy tố. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi và hậu quả: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thống nhất thừa nhận vào khoảng 12 giờ 30 ngày 11/11/2021, bị cáo đã lén lút đột nhập vào tiệm tạp hóa của bà Trần Thị H tại địa chỉ số , khu phố U, phường AP, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để chiếm đoạt 01 xô nhựa màu xanh có nắp màu đỏ trị giá 50.000đ bên trong số tiền 870.000 đồng thì bị phát hiện bắt giữ. Tổng số tài sản bị cáo chiếm đoạt là 920.000 đồng.

[3] Về lỗi của bị cáo: Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại, bị cáo nhận thức được việc làm đó là vi phạm pháp luật, thấy trước hậu quả đồng thời mong muốn chiếm đoạt được tài sản của bị hại để tiêu xài, do đó lỗi của bị cáo là lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Từ những nhận xét nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 920.000 đồng chưa đủ định lượng theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự nhưng bị cáo đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không oan sai đối với bị cáo.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi đó là vi phạm pháp luật, đã nhiều lần bị Tòa án xét xử và kết án về hành vi tương tự; bị cáo biết nếu bị phát hiện sẽ bị xử lý nhưng vì tham lam, tư lợi nên đã cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần có mức hình phạt tương xứng để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn và đã thu hồi toàn bộ ngay sau khi bị phát hiện nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị căn cứ vào các điều luật nêu trên để xử phạt bị cáo là phù hợp pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Tài sản bị cáo chiếm đoạt gồm 01 xô màu xanh có nắp màu đỏ trị giá 50.000đồng bên trong số tiền 870.000đồng, Cơ quan điều tra đã thu giữ, trả lại cho bị hại; bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen đỏ xám, biển số 98B1-882.93 bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội. Quá trình điều tra, xác minh được biết bà Cao Thị Ng đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe, bà Ngoan đã bán xe mô tô trên cho người khác. Bị can Trần Quốc T mua lại xe mô tô trên tại cửa hàng mua bán xe máy Nam Hiệp Phát do ông Trần Văn H làm chủ. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả nên tiếp tục giao chiếc xe này cho Công an thành phố Thuận An điều tra, xác minh và xử lý theo quy định.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Quốc T phạm tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Trần Quốc T 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/11/2021.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Giao cho Công an thành phố Thuận An chiếc xe mô tô 02 bánh mang biển số 98B1-882.93 nhãn hiệu Honda, số loại JC52E Wave S(D), dung tích xilanh 109cm3. Số khung RLHJC5269DY188034; số máy JC52E-1155526 để điều tra, xác minh và xử lý theo quy định của pháp luật (Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/3/2022).

3. Về án phí: Bị cáo Trần Quốc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5841
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 98/2022/HS-ST

Số hiệu:98/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về