Bản án về tội trộm cắp tài sản số 98/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 98/2021/HS-PT NGÀY 10/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10/8/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 97/2021/TLPT-HS ngày 05/4/2021 đối với bị cáo Hà Minh A và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo Hà Minh A, Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2021/HS-ST ngày 26/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Hà Minh A, sinh năm 1998; tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Thôn T, xã D, thành phố B, tỉnh B;

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Hà Văn L, sinh năm 1973;

Con bà Trần Thị Thu H ( tức Trần Thu H), sinh năm 1975;

Vợ: Hà Thị C, sinh năm 1997; Có 01 con sinh năm 2019; Tiền sự: chưa có;

Tiền án: Bản án số 29/2019/HSST, ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án về tội “ Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/4/2020 đến ngày 07/7/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh, hiện tại ngoại ( Vắng mặt tại phiên tòa) .

2. Họ và tên: Nguyễn Văn C, sinh năm 1996; tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Thôn T, xã D, thành phố B, tỉnh B;

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Nguyễn Văn P, sinh năm 1971; Con bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1973; Vợ: Phạm Thị D, sinh năm 1996;

Có 02 con: Lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, Tiền sự: chưa có;

Nhân thân: Ngày 04/4/2013, Công an thành phố Bắc Giang đưa vào trường giáo dưỡng.

Bị cáo đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2020 đến ngày 07/9/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh, hiện tại ngoại ( Có mặt tại phiên tòa) .

3. Họ và tên: Nguyễn Văn L, sinh năm 1966; tên gọi khác: Không;

Nơi cư trú: Thôn N, xã D, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang;

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T ( đã chết); Con bà: Trần Thị T ( Đã chết);

Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1965;

Có 04 con: Lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 2006;

Tiền án, Tiền sự: chưa có;

Nhân thân: Ngày 18/01/1994 bị Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc xử phạt 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 24 tháng về tội “ Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2020 đến ngày 07/9/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh, hiện tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa) Trong vụ án còn có 03 bị cáo khác, 21 người bị hại và 06 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 7/2019, Hoàng Văn H, sinh năm 1991 ở thôn R, xã zd, thành phố B tỉnh B và Hà Minh A, sinh năm 1991 ở thôn T, xã D, thành phố B đi đến nhà Nguyễn Văn L, sinh năm 1966 ở thôn N, xã D, thành phố B đặt vấn đề về việc H và A đi trộm cắp chó, lợn, dê về bán cho L, L đồng ý và thỏa thuận nếu là chó , L trả 70.000đ/1 kg, nếu là lợn thì tính theo con, con to được nhiều tiền, con bé được ít tiền, nếu lợn hoặc chó bị chết thì L không mua. Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên Nguyễn Văn C, sinh năm 1996; Hà Văn B, sinh năm 1996 và Hà Văn H1, sinh năm 1994 đều ở thôn Thuyền, xã Dĩnh Trì, thành phố Bắc Giang rủ nhau đi trộm cắp tài sản với H và A về bán cho L. Để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản C, H, H1 mua 01 bộ kích điện, 01 chiếc kìm công lực có chiều dài 23 cm; còn L đi mua 02 chiếc đèn pin, băng dính, dây thép, bao dứa, dao quắm, xăng để đổ vào các xe mô tô cho mọi người đi trộm cắp. Tất cả các đêm đi thực hiện hành vi các bị cáo thống nhất đi đến nhà L lấy công cụ, phương tiện đi trộm cắp. Sau khi trộm cắp về tất cả các công cụ, phương tiện đều để lại nhà L. Trong khoảng thời gian từ ngày 10/7/2019 đến ngày 05/4/2020, H1 thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Lạng Giang; H, A, C, B, L thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản, có những ngày các bị cáo thực hiện nhiều vụ trộm cắp trên địa bàn các huyện Lạng Giang, Tân Yên, Lục Nam, Yên Dũng, cụ thể như sau:

* Địa bàn huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang:

Vụ thứ nhất: Đêm ngày 23/11/2019, Hà Minh A và Hoàng Văn H rủ nhau đi đến nhà Nguyễn Văn L lấy 01 kích điện, 01 kìm cộng lực, băng dính, đèn pin, bao dứa, dây thép để đi trộm cắp lợn. A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu xanh bạc chở H đi tìm nhà nào nuôi lợn vào trộm cắp. Đến khu vực xã Xương Lâm, huyện Lạng Giang, H và A phát hiện 01 trại nuôi lợn của chị Hoàng Thị Mai, sinh năm 1971 ở thôn Đông Thịnh, xã Xương Lâm, huyện Lạng Giang cách nhà chị Mai khoảng 300m, H và A quan sát thấy trại nuôi lợn không có người trông coi, thông với trại lợn là gian nhà sát gạo ở phía ngoài tiếp giáp với mặt đường, nhà có 02 cánh cửa bằng sắt được khóa.Nếu mở được cửa này có thể đi vào bắt lợn. H lấy chiếc kìm cộng lực cùng A cắt ổ khóa, mở cửa đi xuống chuồng lợn. H thấy trong chuồng thứ 2 có nhiều lợn con màu trắng có trọng lượng 25 kg đến 30 kg/1 con, H vào trong bắt 06 con lợn, H dùng băng dính mang theo quấn quanh mồm lợn không cho kêu rồi đưa cho A cất vào trong bao dứa. A lấy dây thép buộc bao dứa đem ra ngoài cùng H chở về nhà L bán được 1.000.000đ/ 1 con, được tổng số 6.000.000đ. Lúc này ở nhà L có C và H1 ngồi chơi nên H và A rủ C và H1 đi đến trại lợn nhà chị Mai trộm cắp C và H1 đồng ý. A điều khiển xe mô tô chở H, C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đen BKS 36B2- 671.02 chở H1 đi đến trại lợn của chị Mai. Khoảng 03 giờ ngày 24/11/2019, H và H1 cầm theo kích điện đi vào chuồng lợn thứ 2 kích điện cho lợn ngất rồi dùng băng dính quấn quanh mồm lợn không cho kêu, H1 và H bắt được 04 con lợn cho vào 02 bao cho lên xe của A. H bắt 02 con lợn cho vào 02 bao đưa lên xe của C. Do lợn trong chuồng kêu to nên chồng chị Mai ra xem, thấy bị phát hiện nên H, A, C và H1 lên xe chở lợn bỏ chạy về nhà L. Lúc này H và A chia cho H1 và C mỗi người 1 con lợn, còn 04 con lợn H và A bán cho L được 4.000.000đ chia nhau. H1 bán cho L 01 con được 1.000.000đ. C không bán mà nhờ L thịt đem về nhà làm thức ăn. Số lợn mua được, L đem ra chợ bán cho những người không quen biết. Số tiền bán lợn H, A, H1 và L chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 06/5/2020, chị Hoàng Thị Mai làm đơn trình báo Công an huyện Lạng Giang. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạng Giang tiến hành khám nghiệm hiện trường và yêu cầu định giá tài sản.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 12 con lợn áp siêu màu trắng khoảng 03 tháng tuổi, trọng lượng khoảng 30 kg/1 con của chị Hoàng Thị Mai, có giá trị 3.000.000đ/1con, tổng giá trị tại thời điểm chiếm đoạt trị giá 36.000.000đ.

Vụ thứ 2: Khoảng 01 giờ một ngày giữa tháng 2/2020, C, H đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, kìm cộng lực, bao dứa, dây thép đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36B2- 671.02 chở H đến xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang tìm nhà nào nuôi lợn sẽ đột nhập vào trộm cắp. Đến khu chăn nuôi lợn của anh Nguyễn Văn Cảnh, sinh năm 1968, ở thôn Ngoẹn, xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang. C và H thấy không có ai trông coi, cửa ra vào làm bằng lưới B40. H dùng kìm cộng lực cắt khóa, mở cửa đi vào bắt lợn, C ở ngoài cảnh giới. Khi đi vào trong H thấy 01 chuồng lợn nằm đối diện, chuồng lợn bên tay trái theo hướng từ ngoài đi vào có nhiều lợn con, loại lợn áp siêu có trọng lượng khoảng 25 kg/1 con, H dùng kích điện dí vào lợn, rồi bắt 05 con lợn cho 04 con vào 02 bao dứa, mỗi bao 02 con và 01 con cho vào 01 bao dứa rồi cùng C chở về nhà L bán cho L với giá 1.200.000đ/1con, tổng số bán cho L được 6.000.000đ, H và C chia nhau ăn tiêu hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 53/KL-ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 05 con lợn lai áp siêu, mỗi con có trọng lượng khoảng 30 kg/con của anh Nguyễn Văn Cảnh tại thời điểm chiếm đoạt có tổng giá trị là 12.500.000đ.

Vụ thứ 3: Khoảng 02 giờ sáng vào một ngày đầu tháng 3/2020, C, H và B đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, kìm cộng lực, băng dính, dây thép đi trộm cắp tài sản. B ở nhà L chờ. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H đi đến khu chăn nuôi lợn của anh Nguyễn Văn Cảnh. Đến nơi, H dùng kìm cộng lực cắt khóa cửa vào bắt lợn. C đứng ngoài cảnh giới. H vào trong thấy chuồng lợn ở bên tay trái nhốt 04 con lợn nhỏ màu trắng loại lai áp siêu khoảng hơn 03 tháng tuổi, có trọng lượng khoảng 30 kg/1 con. Tại chuồng bên tay phải nhốt 02 con lợn lai áp siêu khoảng 04 tháng tuổi có trọng lượng khoảng 40 kg/1 con. H dùng kích điện dí vào 06 con lợn làm cho chúng ngất, rồi bắt 02 con lợn to cho mỗi con vào 01 bao dứa và 04 con lợn nhỏ cho vào 02 bao dứa. C vận chuyển lợn ra đường cao tốc và gọi B đến chở lợn. B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius RC màu đỏ BKS 98B3- 467.38 đi đến chở 01 bao chứa 02 con lợn về nhà L, còn 03 bao dứa chứa 04 con lợn H và C chở về bán cho L, con lợn to bán được 1.500.000đ/1 con, con lợn nhỏ bán được 1.200.000đ/1 con. Chia cho B 700.000đ, còn lại H và C mỗi người một nửa. Toàn bộ số tiền bán lợn H, C và B chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 54/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 04 con lợn lai áp siêu nặng 30 kg/1 con có giá trị 12.000.000đ; 02 lợn lai áp siêu nặng 40 kg/1 con có giá 7.000.000đ. Tổng giá trị tài sản của anh Cảnh là 19.000.000đ.

Vụ thứ 4: Khoảng 04 giờ ngày 05/3/2020, C, H đem theo 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực đi trộm cắp. C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36B2- 671.02 chở H đến khu chăn nuôi lợn của chị Nguyễn Thị Hiển, sinh năm 1973, ở thôn Cầu Đen, xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Thấy cửa ra vào khu chăn nuôi được che bằng bạt và tấm gỗ, không khóa cửa, C đỗ xe ở ngoài cảnh giới, H đi vào trong dùng kích điện dí vào 01 con lợn màu trắng, loại lợn áp siêu khoảng 02 tháng tuổi có trọng lượng 15 kg, con lợn bị ngất, H đem ra ngoài cho vào bao dứa cùng C chở về nhà L. Khi về đến nơi con lợn bị chết, H và C nhờ L thịt, chia làm 03 phần cho C, H và L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 51/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 01 con lợn lai áp siêu giống có trọng lượng khoảng 15 kg của chị Nguyễn Thị Hiển, tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị là 2.500.000đ.

Vụ thứ 5: Rạng sáng ngày 06/3/2020, C, H đi đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực đi trộm cắp. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H đi tìm nhà nào nuôi lợn vào trộm cắp. Khoảng 03 giờ cùng ngày, đi qua nhà anh Vũ Văn Hiệu, sinh năm 1965, ở thôn Tuấn Thịnh, xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, C và H thấy trong nhà anh Hiệu nuôi lợn, cổng ra vào khóa. C đỗ xe ở ngoài cảnh giới, H dùng kìm cộng lực cắt khóa cổng đi vào chuồng lợn bắt 02 con lợn có trọng lượng khoảng 15 kg/1con cho vào bao dứa đem ra chỗ C chở về nhà L bán được 1.500.000đ. H và C chia nhau mỗi người 750.000đ. Số tiền này C và H chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 50/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 02 con lợn lai áp siêu có trọng lượng khoảng 15kg/1 con của anh Vũ Văn Hiệu, tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 5.000.000đ.

Vụ thứ 6: Rạng sáng ngày 04/3/2020, C, H đi đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36 B2- 671.02 chở H đi tìm nhà nào nuôi lợn vào trộm cắp. Khi đi qua khu chăn nuôi của anh Hà Văn Giới, sinh năm 1977 ở thôn Tê, xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, C và H thấy khu chăn nuôi không có người trông coi, cửa làm bằng tôn sắt chỉ buộc dây không khóa. C đỗ xe ở ngoài cảnh giới, H mở cửa chuồng lợn đi vào dùng kích điện dí vào 05 con lợn, mỗi con trọng lượng khoảng 23 kg làm cho những con lợn này ngất. H cho 05 con lợn vào 03 bao dứa đem ra ngoài cùng C chở lợn về bán cho L được khoảng 6.500.000đ, chia nhau ăn tiêu hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 56/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 05 con lợn, mỗi con trọng lượng khoảng 23 kg/con của anh Hà Văn Giới có tổng giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 11.500.000đ.

Vụ thứ 7: Rạng sáng ngày 13/3/2020, H, C và B rủ nhau đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H. B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu đỏ- đen biển kiểm soát 98B3- 467.38 cùng nhau đi đến khu chăn nuôi lợn của anh Hà Văn Giới. Đến nơi, C và B ở ngoài cảnh giới, H vào phá khóa cửa chuồng lợn, dùng kích điện dí vào 04 con lợn, mỗi con có trọng lượng khoảng 30 kg làm cho các con lợn này bị ngất. H bắt 04 con lợn cho vào 02 bao, mỗi bao 02 con đem ra ngoài để B chở 01 bao chứa 02 con lợn. C và H chở 01 bao dứa chứa 02 con lợn về bán cho L được 5.000.000đ, số tiền này H và C mỗi người được 2.100.000đ, chia cho B 800.000đ. Toàn bộ số tiền này H, C và B chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 55/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 04 con lợn, mỗi con trọng lượng khoảng 30 kg/con của anh Hà Văn Giới có tổng giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 10.400.000đ.

* Địa bàn huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang:

Vụ thứ nhất: Khoảng 00 giờ ngày 03/3/2020 C, H và B rủ nhau đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực đi trộm cắp tài sản. B đổ xăng xe mô tô cho C rồi ngồi đợi ở nhà L để khi nào C và H trộm cắp được sẽ gọi B đến chở về. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H đi đến huyện Tân Yên tìm nhà nào nuôi lợn sơ hở vào trộm cắp tài sản. Khoảng 02 giờ cùng ngày, C và H đi đến trang trại nuôi lợn của ông Giáp Văn Quyết, sinh năm 1956 ở thôn Đông Am Vàng, xã Việt Lập, huyện Tân Yên. C và H dừng xe, H dùng đèn pin soi vào trong phát hiện có nhiều lợn, không có người trông coi C ở ngoài trông xe và cảnh giới. H dùng kìm cộng lực cắt khóa cổng đi vào trong thấy có 01 con chó màu trắng, H dùng kích điện dí vào con chó làm con chó bị ngất, H dùng băng dính quấn vào mồm con chó đem ra đưa cho C để cất giấu vào bao dứa. H quay lại chuồng lợn bên trong có nhiều lợn con, H dùng kích điện dí vào 05 con lợn có trọng lượng khoảng 15 kg/con và 01 con lợn có trọng lượng khoảng 30 kg làm cho những con lợn này ngất. H, C cho 06 con lợn và 01 con chó vào 03 bao dứa đem về bán cho L được 7.000.000đ, chia cho B 600.000đ, số tiền còn lại H và C chi tiêu cá nhân hết.

Quá trình điều tra, ông Giáp Văn Quyết khai: Khoảng 23 giờ ngày 03/3/2020, ông phát hiện khu trang trại bị kẻ gian đột nhập, cửa chuồng lợn mở không đóng, ông kiểm tra, tìm kiếm thì thấy 01 con lợn ở ngoài sân bóng gần trang trại lợn, ở bên trong khu chăn nuôi bị mất 01 con chó nặng khoảng 12 kg và 12 con lợn. Cơ quan điều tra đã điều tra xác minh nhưng C và H chỉ thừa nhận 06 con lợn, ngoài lời khai của ông Quyết không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên không đủ căn cứ kết luận H và C trộm cắp 12 con lợn như ông Quyết đã khai.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 32/KL- ĐGTS ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Yên kết luận: 06 con lợn có trọng lượng 35kg/con trị giá 18.900.000đ; 01 con chó có trọng lượng 12 kg trị giá 900.000đ. Tổng trị giá tài sản của ông Quyết tại thời điểm chiếm đoạt là 19.800.000đ.

Vụ thứ 2: Khoảng 02 giờ ngày 17/3/2020, C, H và B rủ nhau đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực đi đến nhà ông Quyết trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H, B điều khiển xe mô tô BKS 98B3- 467.38 cùng nhau đi đến trang trại chăn nuôi nhà ông Quyết. Đến nơi, H bảo C vào cắt ổ khóa cổng vào trang trại. B ở ngoài cảnh giới. C dùng kìm cộng lực cắt khóa cổng và ngắt điện ở cột điện gần cổng, rồi cùng H vào trong, thấy cửa chuồng lợn khóa, C dùng kìm cộng lực cho vào khoảng trống giữa móc khóa và ổ khóa giật ra, làm bật móc khóa cửa. H và C vào nhìn thấy 01 cũi chó, bên trong có 01 con chó khoảng 14 kg, H dùng kích điện dí vào con chó làm con chó bị ngất, rồi lấy chó đưa cho C đút vào bao dứa. H vào chuồng lợn dùng kích điện, kích 08 con lợn có trọng lượng 25 kg/1 con làm cho lợn ngất, rồi cho 08 con lợn vào bao dứa và cùng C khiêng chó và lợn ra ngoài. C, H, B chở 08 con lợn, 01 con chó ra đầu cầu Quận, thôn Kim Tràng, xã Việt Lập cất giấu. B chở một bao lợn về nhà L trước, H và C quay lại trang trại lợn nhà ông Quyết bắt thêm 02 con lợn có trọng lượng khoảng 30 kg – 40 kg/con rồi quay lại chỗ lợn cất giấu và chở toàn bộ số lợn trộm cắp được về nhà L. Về đến nhà L có 01 con lợn to và 02 con lợn nhỏ bị chết, con chó chạy mất. C và H nhờ L thịt con lợn to bị chết, chia cho H, C, B và L mỗi người một phần, 02 con lợn nhỏ chết C và H chia nhau mỗi người đem 01 con về nhà. Còn lại 07 con lợn H, C, B bán cho L được khoảng 9.000.000đ, cho B 500.000đ, số tiền còn lại H và C chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Trong quá trình điều tra ông Giáp Văn Quyết khai ông không biết các đối tượng trộm cắp cụ thể bao nhiêu con lợn hay lợn chạy ra ngoài. Sau khi các đối tượng trộm cắp ông kiểm tra thấy bị mất 06 con lợn giống khoảng 50 kg/1con, 05 con lợn giống khoảng 35 kg/1con và 01 con chó khoảng 14 kg. Cơ quan điều tra xác minh nhưng C và H thừa nhận trộm cắp của gia đình ông Quyết 10 con lợn, trong đó 08 con lợn nhỏ khoảng 20 kg/1 con, 02 con lợn to khoảng 40 kg/1con và 01 con chó khoảng 15 kg. Ngoài lời khai của ông Quyết không có tài liệu, chứng cứ nào khác để xác định C, H và B trộm cắp 11 con lợn như ông Quyết khai.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/KL- ĐGTS ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Yên kết luận: 01 con chó, trọng lượng 14 kg có trị giá 1.050.000đ; 08 con lợn giống có trọng lượng 35 kg/1 con và 02 con lợn có trọng lượng 50 kg/1 con có giá trị 34.200.000đ; Tổng giá trị tài sản của ông Quyết tại thời điểm chiếm đoạt là 35.250.000đ.

Tổng giá trị tài sản 02 lần trộm cắp lợn ở trang trại nhà ông Quyết là 55.050.000đ.

Vụ thứ 2: Khoảng 02 giờ ngày 08/3/2020, C, H, B đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực để đi trộm cắp. B ở nhà L chờ. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H đến xã Việt Lập, huyện Tân Yên tìm nhà nào nuôi lợn, có sở sẽ trộm cắp. Khi đi qua nhà ông Nguyễn Đình Đại, sinh năm 1955 ở thôn Cầu Cần, xã Việt Lập, huyện Tân Yên. C và H nhìn thấy nhà không có cửa cổng, bên trong sát với cổng có 01 khu chăn nuôi lợn. C đỗ xe ở ngoài cảnh giới, H mang theo kích điện vào trong, H thấy có 01 con chó buộc dây xích ở cổng chuồng lợn nên dùng kích điện dí vào con chó làm nó bị ngất rồi mang ra ngoài dùng băng dính quấn vào mồm con chó và cho vào bao dứa. Sau đó H đi vào khu chuồng lợn dùng kích điện dí vào 03 con lợn, cho 03 con lợn này vào 02 bao dứa. H cùng C chở về bán cho L được 4.000.000đ, chia cho B 300.000đ, số tiền còn lại C và H chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 30/KL- ĐGTD ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Yên kết luận: 03 con lợn có trọng lượng 35 kg/1 con, trị giá 9.450.000đ; 01 con chó có trọng lượng 15 kg/1 con, có giá trị là 1.125.000đ. Tổng tài sản của gia đình anh Đại tại thời điểm chiếm đoạt là 10.575.000đ.

* Địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Vụ thứ nhất: Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 05/3/2020, C, H rủ nhau đi đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực để đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36 B2- 671.02 ( đã tháo biển kiểm soát) chở H đi đến huyện Lục Nam tìm nhà nào sơ hở sẽ trộm cắp lợn. Khoảng 02 giờ 45 phút cùng ngày khi đi qua trang trại nhà anh Dương Công Thu, sinh năm 1970 ở thôn Lan Hoa, xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam. C và H nhìn thấy trang trại hàng rào làm bằng khung lưới B40, C đỗ xe lại ở ngoài cảnh giới, H dùng kìm cộng lực cắt dây thép gai của hàng rào vào trong dùng kích điện dí vào 02 con lợn có trọng lượng khoảng 35 kg/1 con làm 02 con lợn bị ngất. H bắt 02 con lợn cho vào bao dứa đem ra cùng C chở 02 con lợn này về bán cho L được 4.000.000đ chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam kết luận: 02 con lợn có trọng lượng 35 kg/1 con có tổng trị giá là 4.550.000đ.

Vụ thứ 2: Khoảng 02 giờ ngày 15/3/2020, C, H và B rủ nhau đến nhà lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực để đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H. B điều khiển xe mô tô BKS 98B3- 467.38 đi đến huyện Lục Nam. Khi đến xã Chu Diện, huyện Lục Nam, B ở ngoài đường Quốc lộ 31, C và H vào trong đi qua khu chăn nuôi của ông Dương Văn Chương, sinh năm 1968 trú tại: thôn Đồi Gai, xã Chu Diện, huyện Lục Nam, C và H thấy khu chăn nuôi cổng không khóa, C ở ngoài cảnh giới, H vào trong chuồng lợn dùng kích điện dí vào 01 con lợn có trọng lượng khoảng 70 kg/1 con, làm con lợn này bị ngất. H bê ra ngoài cùng C cho vào bao dứa. H và C đưa con lợn cho B đem về bán cho L được 2.800.000đ, cho B 500.000đ, số tiền còn lại H và C chia nhau và chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam kết luận: 01 con lợn có trọng lượng khoảng 70 kg của gia đình ông Chương có trị giá 4.550.000đ.

Vụ thứ 3: Khoảng 0 giờ ngày 22/3/2020, C, H và B rủ nhau đến nhà L lấy 01 bộ kích điện, bao dứa, dây thép, kìm cộng lực để đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H. B điều khiển xe mô tô BKS 98B3- 467.38 đi đến huyện Lục Nam. Khi đi đến xã Đông Hưng, huyện Lục Nam, B đứng chờ ở đường Quốc Lộ, C và H vào trong khu dân cư, khi đi qua nhà anh Hỷ Khìn Vần, sinh năm 1970 ở thôn Trại Quan, xã Đông Hưng, huyện Lục Nam, C và H nhìn thấy nhà anh Vần nuôi lợn, cổng ngoài không khóa. C đỗ xe mô tô cùng H đi vào chuồng lợn, H dùng kích điện dí vào 10 con lợn có trọng lượng 08kg/1con, làm cho những con lợn này bị ngất, cùng C cho vào 02 bao dứa và vận chuyển ra ngoài đưa cho Bình 01 bao, rồi cùng nhau chở về nhà L bán được 10.000.000đ.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam kết luận: 10 con lợn nhà anh Hỷ Khìn Vần có trọng lượng 08 kg/1 con, tại thời điểm chiếm đoạt có tổng giá trị là 20.000.000đ.

Vụ thứ 4: Khoảng 03 giờ ngày 22/3/2020, sau khi đem 10 con lợn trộm cắp của gia đình anh Vần về bán cho L. C và H tiếp tục điều khiển xe mô tô đi trộm cắp tài sản. Khi đi qua nhà anh Bùi Đình Nam, sinh năm 1972 ở thôn Muối, xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam, H thấy nhà anh Nam có nuôi lợn, cổng ngoài khóa có thể nhắc ra. H bảo C đỗ xe lại cùng H nhấc cánh cổng ra ngoài. C ở ngoài cảnh giới, H đi vào khu chăn nuôi dùng kích điện dí vào 02 con lợn có trọng lượng khoảng 40 kg/1 con làm cho 02 con lợn bị ngất. H bắt 02 con lợn, mỗi con cho vào 01 bao dứa đem ra ngoài rồi cùng C chở về nhà L. Sau đó, H, C và B quay lại nhà anh Bùi Đình Nam bắt lợn. Đến nơi C đứng ngoài cảnh giới, còn H và B đi vào khu chăn nuôi, H dùng kích điện dí vào 04 con lợn có trọng lượng 40 kg/1 con làm 04 con lợn bị ngất, rồi cùng C cho 04 con lợn vào các bao dứa và cùng nhau chở về bán cho L, tổng số 06 con được 18.000.000đ.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam kết luận: 06 con lợn thịt, mỗi con có trọng lượng là 40 kg/con của gia đình ông Bùi Đình Nam có tổng giá trị là 15.600.000đ.

Tổng số tiền bán lợn cho L trong ngày 22/3/2020 là 28.000.000đ, H và C chia cho B 2.000.000đ, số tiền còn lại H, C chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

* Địa bàn huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang:

Vụ thứ nhất: Khoảng hơn 00 giờ ngày 10/7/2019, H và A đến nhà L lấy công cụ đi trộm cắp tài sản. A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu xanh- Bạc ( biển kiểm soát A không nhớ) chở H ngồi phía sau đi đến địa phận xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng. Khi đi qua nhà ông Đào Văn Sáng, sinh năm 1968, trú tại: Thôn Xuân Đông, xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, H và A thấy cổng nhà ông Sáng không khóa, A đỗ xe mô tô ở ngoài đường rồi cùng H đi vào nhà ông Sáng thì thấy trong nhà ông Sáng có chăn nuôi dê. H đi vào bắt 02 con dê có trọng lượng khoảng 15 kg/ 1 con kéo ra ngoài cổng rồi cùng A cho 02 con dê vào bao dứa chở về bán cho L được 3.500.000đ, số tiền này H và A chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Vụ thứ 2: Ngày 11/7/2020, H và A đến nhà ông L lấy công cụ, phương tiện đi trộm cắp tài sản. A điều khiển xe mô tô chở H đi đến nhà ông Đào Văn Sáng tiếp tục trộm cắp dê. Đến nơi, A đỗ xe ở cổng đứng ngoài cảnh giới, H đi vào khu nhốt dê của gia đình ông Sáng bắt 02 con dê có trọng lượng khoảng 30 kg/1 con kéo ra ngoài. H và A cho 02 con dê vào bao dứa rồi quay lại bắt 01 con chó có trọng lượng khoảng 10 kg đem ra chỗ A cho vào bao dứa. H và A chở 02 con dê, 01 con chó về bán 01 con chó cho L được 700.000đ, 02 con dê A bán cho người không quen biết, A không nhớ bán được bao nhiêu tiền mà chỉ nhớ toàn bộ số tiền bán chó và dê đều được A và H chia đôi, số tiền này A và H chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 65/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 01 con chó 10 kg có giá 85.000đ/1 kg; con dê có giá 140.000đ/1 kg. Tại thời điểm chiếm đoạt 04 con dê và 01 con chó có tổng giá trị là 17.650.000đ.

Vụ thứ 3: Một ngày tháng 10/2019, H và A đến nhà ông L lấy công cụ đi trộm cắp tài sản. A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter chở H ngồi sau đi đến gia đình ông Ngụy Văn Kỹ, sinh năm 1956 ở tổ dân phố Quán Trắng, thị trấn Tân A, huyện Yên Dũng. A đứng ngoài cảnh giới, H vào khu chăn nuôi lợn của gia đình ông Kỹ bắt 04 con lợn, mỗi con có trọng lượng khoảng 09 đến 10 kg, cho vào bao dứa mang ra ngoài cùng H chở 04 con lợn về bán cho L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 48/KL- ĐGTS ngày 17/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: Tại thời điểm chiếm đoạt 04 con lợn của gia đình ông Kỹ có tổng giá trị là 12.320.000đ.

Vụ thứ 4: Khoảng 00 giờ một ngày tháng 12/2019, H và A đến nhà ông L lấy công cụ đi trộm cắp tài sản. A điều khiển xe mô tô chở H ngồi sau đến nhà ông Nguyễn Văn Tiệc, sinh năm 1958 ở Tiểu khu 6, thị trấn Neo, huyện Yên Dũng. A đỗ xe ở ngoài cổng đứng cảnh giới. H vào khu chăn nuôi của gia đình ông Tiệc bắt 02 con lợn, mỗi con có trọng lượng khoảng 10 kg/1 con cho vào bao dứa mang ra ngoài cùng A chở về bán cho L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 71/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: Tại thời điểm chiếm đoạt 02 con lợn của gia đình ông Tiệc có tổng giá trị là 2.000.000đ.

Vụ thứ 5: Khoảng 00 giờ ngày 02/3/2020, C, H và B đi đến nhà L lấy công cụ đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Exciter màu đen BKS 36B2- 671.02 chở H ngồi sau, B ở nhà L chờ. C điều khiển xe đến gia đình ông Nguyễn Đức Thủy, sinh năm 1963 ở thôn Kim Xuyên, thị trấn Tân A, huyện Yên Dũng thấy cổng không khóa. C dừng xe ở cổng rồi cùng nhau vào bắt 04 con lợn, mỗi con khoảng 15 kg mang về bán cho L lấy tiền chia nhau.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 67/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: Tại thời điểm chiếm đoạt 04 con lợn của gia đình ông Thủy có trọng lượng 15 kg/1 con, tổng trọng lượng là 60 kg; giá trị tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 5.460 .000đ.

Vụ thứ 6: Khoảng 03 giờ sáng ngày 02/3/2020, sau khi trộm cắp ở nhà ông Nguyễn Đức Thủy, C, H và B rủ nhau đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô chở H đến nhà ông Phạm Văn Đối, sinh năm 1963 ở thôn Tân Cương ( nay là tổ dân phố Tân Cương), thị trấn Nham Biền, huyện Yên Dũng bắt 01 con lợn khoảng 20 kg cho vào bao dứa mang ra ngoài gọi điện thoại B đến điểm hẹn mang về. Khi nhận điện thoại B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ- đen BKS 98B3- 467.38 đến chở lợn về nhà L.

Vụ thứ 7: Khoảng 00 giờ ngày 21/3/2020 C, H và B đến nhà L lấy công cụ, phương tiện đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô chở H. B ở nhà L chờ. C và H đến nhà ông Phạm Văn Đối, sinh năm 1963 ở tổ dân phố Tân Cương, thị trấn Nham Biền, huyện Yên Dũng. C dùng kìm cộng lực đem theo cắt khóa cổng. H dùng kích điện làm cho 01 con lợn khoảng 20 kg ngất. H bắt con lợn cho vào bao dứa đem về bán cho L lấy tiền chia nhau.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 70/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 02 con lợn của gia đình ông Đối có trọng lượng 40 kg/1 con, tổng trọng lượng là 80 kg; tổng giá trị tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 7.240 .000đ.

Vụ thứ 8: Khoảng 00 giờ ngày 07/3/2020, C, H và B đến nhà L lấy công cụ, phương tiện. C điều khiển xe mô tô chở H đi đến gia đình ông Ngụy Văn Quý, sinh năm 1973, tại thôn Đa Thịnh, xã Yên Lư, huyện Yên Dũng bắt 03 con lợn khoảng 20 kg/1con cho vào bao, cùng nhau mang về bán cho L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 69/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 03 con lợn của gia đình ông Quý có tổng trọng lượng là 75kg; tổng giá trị tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 6.825.000đ.

Vụ thứ 9: Khoảng 03 giờ ngày 05/3/2020, C, H và B đến nhà L lấy công cụ, phương tiện. C điều khiển xe mô tô đã tháo biển kiểm soát chở H đến gia đình ông Trần Văn Lâm, sinh năm 1961, tại thôn Liễu Nham, xã Tân Liễu, huyện Yên Dũng bắt 02 con lợn khoảng 20 kg/1con cho vào bao, cùng nhau mang về bán cho L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 66/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 02 con lợn của gia đình ông Lâm có tổng trọng lượng là 40kg; tổng giá trị tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 3.600.000đ.

Vụ thứ 10: Khoảng 19 giờ ngày 10/3/2020, C, H và B đến nhà L lấy công cụ, phương tiện. C điều khiển xe mô tô chở H đến gia đình bà Hoàng Thị Lược, sinh năm 1966 ở thôn Quyết Chiến, xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng. H dùng thanh sắt bẻ gãy khóa cổng. H và C vào bắt 06 con lợn, mỗi con khoảng 10 kg cho vào 02 bao đem về bán cho L. Sau đó H và C quay lại nhà bà Lược bắt thêm 05 con lợn đem về bán cho L, được tiền chia nhau.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 68/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 11 con lợn của gia đình bà Lược có tổng trọng lượng là 110kg; tổng giá trị tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 10.010.000đ.

Vụ thứ 11: Chiều ngày 04/4/2020, C, H và B rủ nhau đi trộm cắp lợn đem về nhờ L thịt để làm thức ăn. Theo thỏa thuận B ở nhà L đợi khi nào C và H trộm cắp được lợn sẽ điện thoại cho B đến chở tài sản trộm cắp về nhà L. Khoảng 00 giờ ngày 05/4/2020, C, H và B đến nhà Nguyễn Văn L lấy công cụ, phương tiện đi trộm cắp. C và H lấy 01 kích điện, dây thép, bao dứa. C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, biển kiểm soát 36B2- 671.02 C tháo biển kiểm soát cất ở nhà. C chở H đến nhà anh Hoàng Văn Nông, sinh năm 1979 ở thôn Liên Sơn, xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng phát hiện nhà anh Nông nuôi lợn, khu chăn nuôi có cổng riêng. C và H nhấc cánh cổng chuồng lợn đặt sang một bên. C và H dùng dây thép buộc cửa chính và cửa nách của gia đình anh Nông. H dùng kích điện dí vào con lợn khoảng 70 kg làm con lợn ngã. H mang con lợn cho vào bao, khiêng ra ngoài đường. Khi đi cách gia đình anh Nông khoảng 200m, H phát hiện gia đình anh Hoàng Minh Linh, sinh năm 1983 ở thôn Toàn Thắng, xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng để 01 chiếc xe cải tiến ở trước cửa. C và H mang con lợn ra khu vực xã Đại Lâm, huyện Lạng Giang để ở sườn đường, rồi quay lại nhà anh Linh cắt khóa lấy chiếc xe cải tiến đem đến cổng nhà anh Nông, bắt tiếp con lợn còn lại. H dùng kích điện dí vào con lợn và đè con lợn xuống để C dùng băng dính quấn vào mõm con lợn, nhưng do mõm lợn trơn không quấn được băng dính, lợn kêu to. Anh Nông dậy bật điện, nhưng không mở được cửa. C và H bỏ chạy kéo theo chiếc xe cải tiến ra chỗ để con lợn trước đó, điện thoại cho B lên trở con lợn trước về. C điều khiển xe mô tô chở H ngồi sau kéo chiếc xe cải tiến về nhà L. Do lợn trộm cắp của gia đình anh Nông bị chết, L thịt rồi chia mỗi người một phần đem về ăn.

Ngày 05/4/2020, anh Hoàng Văn Nông làm đơn trình báo Công an huyện Yên Dũng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ tại hiện trường 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen của C bị rơi.

Biết hành vi của mình sẽ bị phát hiện, ngày 11/4/2020 Nguyễn Văn C đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng xin đầu thú và khai nhận đã trộm cắp tài sản tại nhà anh Nông cùng các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại địa bàn các huyện Lạng Giang, Lục Nam và Tân Yên.

Ngày 11/4/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn L, Hà Văn B và tiến hành khám xét nhà và nơi ở của C, L, B.

- Thu giữ tại nhà Hà Văn B: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1102, màu đen, số Imei: 353690056103729; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha- Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát: 98B3- 467.38, số máy: 685657, số khung: 244254; 01 đăng ký xe mô tô số: 178691, biển kiểm soát: 98B3- 467.38 tên Hà Văn B; 02 mảnh cao su được làm từ lốp xe mô tô, đều có chiều dài ( 72 x 20) cm.

- Thu giữ tại nhà của Nguyễn Văn L: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha- Exciter, màu đỏ đen, biển kiểm soát 98B2- 679.45, số máy: IS9A078593; số khung: S9A009078576; 01 đăng ký xe mô tô số 077392 mang tên Nguyễn Văn L.

Bà Nguyễn Thị Tốn là vợ của L giao nộp cho Cơ quan điều tra vật chứng gồm:

01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha- Exiter màu đen, không có biển kiểm soát, số khung Y040796, số máy IS91- 040736; 03 bao dứa màu xanh dài, rộng ( 110 x 65) cm; 01 con dao quắm chuôi gỗ dài 110 cm; 01 chiếc ắc quy nhựa màu trắng, kích thước dài, rộng, cao lần lượt là ( 11 x 9 x 7) cm; 02 đèn pin đã qua sử dụng nhãn hiệu Wasing;

08 cuộn băng dính màu đen; 01 thòng lọng có cán cầm bằng gỗ, phần dây có gắn răng cưa kim loại sau cạnh, có dây dẫn điện ở tại nhà Nguyễn Văn L.

- Thu giữ tại gia đình nhà Nguyễn Văn C: 01 thòng lọng bằng gỗ được quấn băng dính đen chiều dài 70 cm, được gắn dây thép có chiều dài 70 cm; 01 chiếc kìm cộng lực dài 23 cm; 01 bình ắc quy màu trắng kích thước ( 11 x 7 x 9) cm; 01 biển kiểm soát xe mô tô: 36B2- 671.02; 03 dây kim loại màu trắng ( loại dây phanh xe đạp) dài 1,69m, đường kính 0,1 cm; 01 dây kim loại màu trắng ( loại dây phanh xe máy), dài 1,42m, đường kính 0,2cm; 01 cuộn dây dẫn điện vỏ nhựa màu xám, lõi đồng có chiều dài 20,7m, đường kính 0,1 cm; 01 cuộn dây dẫn điện lõi đồng, vỏ ngoài màu đen dài 22,4m, đường kính 0,1cm; 01 lưỡi răng cưa kim loại sáu cạnh ở giữa có lỗ tròn, đường kính vùng cưa là 3,5 cm; 02 lá đồng, có kích thước lần lượt 2,5 x 5; 3 x 15, đều được nối vào dây điện màu đỏ, trắng dài 15 cm.

Bà Nguyễn Thị Phương là bị đẻ bị cáo Nguyễn Văn C giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Dũng 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 006672, biển kiểm soát 36B2- 671.02, mang tên Hà Văn Thức, sinh năm 1984.

Ngày 12/4/2020, Hoàng Văn H đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng đầu thú và khai nhận các vụ trộm cắp tài sản như C, L, B đã khai. Ngoài ra, H còn khai nhận cùng Hà Minh A thực hiện hành các hành vi trộm cắp lợn, chó và dê trước đó ở địa bàn huyện Yên Dũng.

Ngày 14/4/2020, Hà Minh A đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Dũng đầu thú và khai nhận về hành vi phạm tội của mình như C, L, H đã khai.

Hà Văn H1 sau khi phạm tội bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 15/7/2020, Hà Văn H1 đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạng Giang đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp cùng đồng phạm.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 46/KL- ĐGTS ngày 17/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 02 con lợn của gia đình anh Hoàng Văn Nông có tổng trọng lượng 230 kg, tổng trị giá tài sản tại thời điểm chiếm đoạt là 17.400.000đ, trong đó con lợn bắt được có giá trị là 6.060.000đ.

Như vậy, Nguyễn Văn C, Hoàng Văn H, Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn L, Hà Văn A và Hà Văn H1 trộm cắp lợn, chó và dê của 26 gia đình người bị hại, được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự các huyện Yên Dũng, Lạng Giang, Tân Yên và Lục Nam xác định tổng số tiền là 288.980.000đ. Trong đó Hoàng Văn H phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng giá trị tài sản là 288.980.000đ; Nguyễn Văn L phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng giá trị tài sản là 280.580.000đ; Nguyễn Văn C phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng giá trị tài sản là 257.010.000đ; Hà Văn B phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng giá trị tài sản là 184.960.000đ; Hà Minh A phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng giá trị tài sản là 67.970.000đ và Hà Văn H1 phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng giá trị tài sản là 18.000.000đ.

Cáo trạng số 71/CT- VKSYD ngày 23 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng truy tố Nguyễn Văn L, Hoàng Văn H và Nguyễn Văn C về tội “ Trộm cắp tài sản ” theo điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật hình sự; Truy tố Hà Văn B và Hà Minh A về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự; Truy tố Hà Văn H1 về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2021/HS-ST ngày 26/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Hà Minh A, Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm a, c khoản 2, khoản 5 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38; khoản 5 Điều 65; Điều 56 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Hà Minh A 02 ( hai) năm 07 ( bẩy) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 06 tháng tù của bản án số: 29/2019/HS-ST ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng; buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 03( ba) năm 01(một) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/4/2020 đến ngày 07/7/2020. Phạt bổ sung 7.000.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

- Áp dụng điểm a khoản 3, khoản 5 Điều 173; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 07 ( bẩy ) năm 02 ( hai) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2020 đến ngày 07/9/2020. Phạt bổ sung 15.000.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.

- Áp dụng điểm a khoản 3, khoản 5 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 07 ( bẩy) năm 03 ( ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2020 đến ngày 07/9/2020. Phạt bổ sung 15.000.000 đồng để sung công quỹ nhà nước.

Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/3/2021, bị cáo Nguyễn Văn C nộp đơn kháng cáo, ngày 08/3/2021, bị cáo Nguyễn Văn L nộp đơn kháng cáo và ngày 09/3/2021 bị cáo Hà Minh A nộp đơn kháng cáo. Các bị cáo đều đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Trước khi xét xử phúc thẩm, ngày 28/7/2021 bị cáo Hà Minh A đã có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét đối với kháng cáo của bị cáo Hà Minh A.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Bị cáo Nguyễn Văn C trình bày: Trong quá trình bị cáo tại ngoại, bị cáo đã hợp tác với cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Giang, tố giác để Công an bắt giữ một số đối tượng làm giả giấy tờ tài liệu của cơ quan tổ chức.

Bị cáo Nguyễn Văn L trình bày: Quá trình bị cáo tại ngoại, bị cáo đã tố cáo hành vi trộm cắp tài sản của một số đối tượng cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Giang để Công an bắt giữ và xử lý theo pháp luật.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà các bị cáo nêu ra đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L; sửa bản án sơ thẩm, phạt bị cáo C và bị cáo L mỗi bị cáo 07 ( Bẩy) năm tù. Các bị cáo không phải chiu án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn C và bị cáo Nguyễn Văn L không có ý kiến tranh luận gì.

Bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo Hà Minh A; Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L đã được làm trong thời hạn kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyệnYên Dũng, tỉnh Bắc Giang theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

Trước khi xét xử phúc thẩm, ngày 28/7/2021 bị cáo Hà Minh A đã có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo. Tại thông báo rút kháng cáo số: 19/2021/TB -TA ngày 28/7/2021, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã có văn bản thông báo gửi cho bị cáo Hà Minh A cũng như những người tham gia tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng biết, nên Hội đồng xét xử không xem xét kháng cáo của bị cáo, bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2021/HS-ST ngày 26/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Hà Minh A.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L thì thấy: Trong khoảng thời gian từ ngày 10/7/2019 đến ngày 05/4/2020, Hoàng Văn H, sinh năm 1991 ở thôn Rừng Trong, xã Dình Trì, thành phố Bắc Giang cùng Hà Minh A, sinh năm 1998, Nguyễn Văn C, sinh năm 1996, Hà Văn B, sinh năm 1996 và Hà Văn H1, sinh năm 1994 đều ở thôn Thuyền, xã Dĩnh Trì, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang thực hiện các vụ trộm cắp trên địa bàn các huyện Lạng Giang, Tân Yên, Lục Nam và Yên Dũng của tỉnh Bắc Giang. Các bị cáo đem tài sản trộm cắp được bán cho Nguyễn Văn L, sinh năm 1966 ở thôn Nguộn, xã Dĩnh Trì, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Lấy tiền chi tiêu cá nhân, cụ thể như sau:

* Địa bàn huyện Yên Dũng 11 vụ:

Vụ thứ nhất: Khoảng 0 giờ ngày 10/7/2019, Hoàng Văn H và Hà Minh A đến nhà ông Đào Văn Sáng, sinh năm 1968 ở thôn Xuân Đông, xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, thấy cổng không khóa, H và A vào bắt 02 con dê có trọng lượng khoảng 15 kg/ 1 con mang về bán cho L được 3.500.000đ, chi tiêu cá nhân hết.

Vụ thứ 2: Ngày 11/7/2019, H và A tiếp tục đến nhà ông Sáng bắt 02 con dê có trọng lượng khoảng 30 kg/1 con và 01 con chó có trọng lượng 10 kg, mang về bán cho L 01 con chó được 700.000đ, bán cho người không quen biết 02 con dê, số tiền bán được H và A chia đôi chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 65/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: Tổng số tài sản của gia đình anh Sáng tại thời điểm chiếm đoạt trị giá 17.650.000đ.

Vụ thứ 3: Vào một ngày tháng 10/2019, Hoàng Văn H và Hà Minh A đèo nhau bằng xe mô tô nhãn hiệu Exciter đến nhà ông Ngụy Văn Kỹ, sinh năm 1956 ở tổ dân phố Quán Trắng, thị trấn Tân A. A đứng ngoài cảnh giới, H vào bắt 04 con lợn, mỗi con có trọng lượng 09- 10 kg mang về bán cho L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 48/KL- ĐGTS ngày 17/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 04 con lợn của gia đình ông Kỹ có giá trị 12.320.000đ.

Vụ thứ 4: Khoảng 0 giờ một ngày tháng 12/2019, A điều khiển xe mô tô chở H đến gia đình ông Nguyễn Văn Tiệc, sinh năm 1958 ở tổ dân phố 6, thị trấn Nham Biền, huyện Yên Dũng bắt 02 con lợn, mỗi con trọng lượng 10 kg cho vào bao dứa mang về bán cho L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 71/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận 02 con lợn của gia đình ông Tiệc tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 2.000.000đ.

Vụ thứ 5: Khoảng 00 giờ ngày 02/3/2020 H, C và B đến nhà L lấy công cụ phương tiện. C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Exiter màu đen BKS 36B2- 671.02 chở H ngồi phía sau. B ở nhà L chờ. C điều khiển xe đến gia đình ông Nguyễn Đức Thủy, sinh năm 1963 ở thôn Kim Xuyên, thị trấn Tân A, huyện Yên Dũng, thấy cổng không khóa. C và H bắt 04 con lợn, mỗi con có trọng lượng khoảng 15 kg về bán cho L lấy tiền chia nhau.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 67/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 04 con lợn của gia đình ông Thủy tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 5.460.000đ.

Vụ thứ 6: Khoảng hơn 03 giờ ngày 02/3/2020, sau khi trộm cắp lợn của nhà ông Thủy. C, H và B rủ nhau đi trộm cắp. C điều khiển xe mô tô chở H đến nhà ông Phạm Văn Đối, sinh năm 1963 ở thôn Tân Cương ( nay là tổ dân phố Tân Cương), thị trấn Nham Biền bắt 01 con lợn khoảng 20 kg gọi điện, B đến điểm hẹn chở về bán cho L.

Vụ thứ 7: Khoảng 0 giờ ngày 21/3/2020 C, H và B đến nhà L. C điều khiển xe mô tô chở H đi trộm cắp, B ở nhà L chờ. C và H đến nhà ông Phạm Văn Đối, sinh năm 1963 ở thôn Tân Cương ( nay là tổ dân phố Tân Cương), thị trấn Nham Biền. C dùng kìm công lực cắt khóa cổng, H vào kích điện con lợn nặng khoảng 20 kg bị ngất, cho vào bao đem về bán cho L lấy tiền chia nhau.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 70/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 02 con lợn của gia đình ông Đối tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 7.240.000đ.

Vụ thứ 8: Khoảng 03 giờ ngày 05/3/2020, C, H và B đến nhà L lấy công cụ, phương tiện. C điều khiển xe mô tô đã tháo biển kiểm soát chở H đi đến gia đình anh Nguyễn Văn Lâm, sinh năm 1961, tại thôn Liễu Nham, xã Tân Liễu. H vào bắt 02 con lợn khoảng 20 kg/1 con cho vào bao mang về bán cho L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 66/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 02 con lợn của gia đình ông Lâm tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 3.600.000đ.

Vụ thứ 9: Khoảng 00 giờ ngày 07/3/2020, C, H và B đến nhà L lấy công cụ, phương tiện. C điều khiển xe mô tô chở H, B ở nhà L chờ. C và H đến gia đình ông Ngụy Văn Quý, sinh năm 1973, ở thôn Đa Thịnh, xã Yên Lư bắt 03 con lợn khoảng 20 kg/1 con cùng nhau mang về bán cho L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 69/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 03 con lợn của gia đình ông Quý tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 6.825.000đ.

Vụ thứ 10: Khoảng 19 giờ ngày 10/3/2020, C, H và B đến nhà L lấy công cụ, phương tiện. C điều khiển xe mô tô chở H đến gia đình bà Hoàng Thị Lược, sinh năm 1966 ở thôn Quyết Chiến, xã Lão Hộ. H dùng thanh sắt bẻ gẫy khóa cổng. H và C vào bắt 06 con lợn, mỗi con khoảng 10 kg cho vào bao mang về bán cho L. Sau đó H và C quay lại nhà bà Lược bắt 05 con lợn mang về bán cho L lấy tiền chia nhau.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 68/KL- ĐGTS ngày 25/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 11 con lợn của gia đình bà Lược tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 10.010.000đ.

Vụ thứ 11: Chiều ngày 04/4/2020, C, H, B rủ nhau đi trộm cắp lợn mang về nhờ L thịt để làm thức ăn. B ở nhà L chờ. Khoảng 00 giờ ngày 05/4/2020 C đèo H mang theo công cụ, phương tiện lấy của nhà L đến nhà anh Hoàng Văn Nông, sinh năm 1979 ở thôn Liên Sơn, xã Lão Hộ dùng kích điện bắt 01 con lợn khoảng 70 kg mang ra ngoài đường và lấy 01 xe cải tiến của gia đình anh Hoàng Minh Linh, sinh năm 1983 ở thôn Toàn Thắng, xã Lão Hộ để làm phương tiện chở con lợn về. H và C mang xe cải tiến ra sườn đường để. Sau đó quay lại bắt tiếp 01 con lợn còn lại. H dùng kích điện dí vào con lợn, H đè con lợn xuống để C quấn băng dính vào mõm nhưng do mõm lợn chơn không quấn được, lợn kêu to, bị anh Nông phát hiện. C và H bỏ chạy kéo theo chiếc xe cải tiến ra chỗ để lợn và điện thoại cho B lên chở lợn về. C điều khiển xe mô tô chở H ngồi sau kéo xe cải tiến về nhà L. Do lợn chết nên L thịt chia cho H, C, B và L mỗi người một phần đem về ăn.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 46,49/KL- ĐGTS ngày 17/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Dũng kết luận: 02 con lợn của gia đình anh Nông tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 17.400.000đ, trong đó 01 con lợn bắt được có trị giá 6.060.000đ; 01 chiếc xe cải tiến có trị giá 640.000đ.

* Địa bàn huyện Tân Yên gồm 03 vụ:

Vụ thứ nhất: Khoảng 00 giờ ngày 03/3/2020 C, H và B rủ nhau đến nhà L lấy công cụ phương tiện đi trộm cắp tài sản. B đổ xăng xe cho C và H, sau đó ngồi nhà L chờ, khi nào C và H trộm cắp được sẽ gọi B đến chở. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H đi đến trang trại của ông Giáp Văn Quyết, sinh năm 1956 ở thôn Đông Am Vàng, xã Việt Lập, huyện Tân Yên, không có người trông coi. C ở ngoài trông xe và cảnh giới. H vào dùng kìm cộng lực cắt khóa cổng đi vào dùng kích điện dí vào 01 con chó làm con chó bị ngất. H dùng băng dính quấn mồm chó, đưa ra cho C cho vào bao. H quay lại dùng kích điện dí vào 05 con lợn có trọng lượng 15 kg/1 con và 01 con lợn có trọng lượng 30 kg/1 con. H và C mang 01 con chó và 06 con lợn về bán cho L được 7.000.000đ, cho B 600.000đ, số tiền còn lại H và C chia nhau ăn tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 32/KL- ĐGTS ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Yên kết luận: 06 con lợn và 01 con chó của gia đình ông Quyết tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 19.800.000đ.

Vụ thứ 2: Khoảng 02 giờ ngày 08/3/2020 C, H và B đến nhà L lấy công cụ phương tiện đi trộm cắp. B ở nhà L chờ. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H đến xã Việt Lập, huyện Tân Yên xem nhà nào nuôi lợn sơ hở sẽ vào trộm cắp. Khi đi qua nhà ông Nguyễn Đình Đại, sinh năm 1955 ở thôn Cần, xã Việt Lập thấy nhà không có cửa cổng, bên trong có khu nuôi lợn. C đỗ xe ở ngoài cảnh giới, H mang theo kích điện đi vào thấy 01 con chó. H dùng kích điện dí vào con chó làm chó bị ngất, rồi mang ra ngoài quấn băng dính vào mồm và cho vào bao dứa. Sau đó H đi vào dùng kích điện bắt 03 con lợn. C chở chó và lợn về bán cho L được 4.000.000đ, chia cho B 300.000đ, số tiền còn lại C và H chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 30/KL- ĐGTS ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Yên kết luận: 03 con lợn và 01con chó của gia đình ông Đại tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 10.575.000đ.

Vụ thứ 3: Khoảng 02 giờ ngày 17/3/2020. C, H và B rủ nhau đến nhà L lấy công cụ phương tiện đi trộm cắp. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H, B điều khiển xe mô tô BKS 98B3- 467.38 cùng nhau đến nhà ông Quyết bắt 01 con chó và 10 con lợn. C, H và B mang về bán cho L nhưng 01 con lợn to và 02 con lợn nhỏ bị chết, 01 con chó chạy mất. L thịt con lợn to bị chết chia cho H, C, B và L mỗi người một phần, 02 con lợn nhỏ bị chết C và H mỗi người một con đem về. Còn 07 con lợn H, C, B bán cho L được 9.000.000đ, B được chia 500.000đ, số tiền còn lại H và C chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/KL- ĐGTS ngày 14/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Yên kết luận: 08 con lợn giống, 02 con lợn có trọng lượng 50 kg/con và 01con chó của gia đình ông Quyết tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 35.250.000đ.

* Địa bàn huyện Lục Nam 04 vụ:

Vụ thứ nhất: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 05/3/2020, C và H rủ nhau đến nhà L lấy công cụ phương tiện đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 ( đã tháo biển kiểm soát) chở H đến huyện Lục Nam tìm nhà nào sơ hở vào trộm cắp. Khoảng 02 giờ 45 phút cùng ngày đi qua nhà anh Dương Công Thu, sinh năm 1970 ở thôn Lan Hoa, xã Lan Mẫu, C và H thấy trang trại hàng rào làm bằng sắt B40, C ở ngoài cảnh giới. H dùng kìm cộng lực cắt dây thép gai vào dùng kích điện bắt 02 con lợn mang về bán cho L được 4.000.000đ chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam kết luận: 02 con lợn của gia đình anh Thu tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 4.550.000đ.

Vụ thứ 2: Khoảng 02 giờ ngày 15/3/2020, C, H và B rủ nhau đến nhà L lấy công cụ phương tiện đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02, B điều khiển xe mô tô BKS 98B3- 467.38. B đỗ xe ở Quốc lộ 31 chờ. H và B đi đến khu chăn nuôi của gia đình ông Dương Văn Chương, sinh năm 1968 ở thôn Đồi Gai, xã Chu Diện, huyện Lục Nam. C ở ngoài cảnh giới, H vào chuồng dùng kích điện bắt 01 con lợn có trọng lượng khoảng 70 kg, B mang về bán cho L được 2.800.000đ, B được 500.000đ, số tiền còn lại H và C chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam kết luận: 01 con lợn của gia đình ông Chương tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 4.550.000đ.

Vụ thứ 3: Khoảng 00 giờ ngày 22/3/2020, C, H và B đến nhà L lấy công cụ, phương tiện đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02, B điều khiển xe mô tô BKS 98B3- 467.38 cùng nhau đến huyện Lục Nam. B chờ ở ngoài đường Quốc lộ. C và H vào nhà anh Hỷ Khìn Vần, sinh năm 1970 ở thôn Trại Quan, xã Đông Hưng, huyện Lục Nam, H dùng kích điện bắt 10 con lợn cùng C và B mang về bán cho L được 10.000.000đ.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam kết luận: 10 con lợn của gia đình ông Vần tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 20.000.000đ.

Vụ thứ 4: Khoảng 03 giờ ngày 22/3/2020, sau khi đem 10 con lợn trộm cắp của gia đình anh Vần về nhà L. H và C tiếp tục đến nhà anh Bùi Đình Nam, sinh năm 1972 ở thôn Muối, xã Lan Mẫu, huyện Lục Nam. C ở ngoài cảnh giới. H dùng kích điện bắt 02 con lợn mang về nhà L, sau đó H và C quay lại nhà anh Nam bắt 04 con lợn mang về nhà L. C và H bán cho L 06 con lợn được 18.000.000đ.

Tổng số tiền bán lợn của ngày 22/3/2020 được 28.000.000đ, H và C chia cho B 2.000.000đ, còn lại chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 04/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam kết luận: 16 con lợn của gia đình ông Nam tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 15.600.000đ.

* Địa bàn huyện Lạng Giang 07 vụ:

Vụ thứ nhất: Đêm ngày 23/11/2019, Hà Minh A và Hoàng Văn H rủ nhau đến nhà L lấy cung cụ phương tiện đi trộm cắp tài sản. A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu xanh bạc chở H đi tìm nhà nào nuôi lợn vào trộm cắp. Đến trại nuôi lợn nhà chị Hoàng Thị Mai, sinh năm 1971 ở thôn Đông Thịnh, xã Xương Lâm, thấy không có người trông coi. H và A cắt ổ khóa vào bắt 06 con lợn mang về bán cho L được 6.000.000đ. Lúc này ở nhà L có C và H1 ở đó. H và A rủ C và H1 đến nhà chị Mai trộm cắp lợn, C và H1 đồng ý. A điều khiển xe mô tô chở H, C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Exciter màu đen, BKS 36B2- 671.02 chở H1 đến trang trại nhà chị Hoàng Thị Mai khoảng 03 giờ. H và H1 dùng kích điện vào bắt 06 con lợn về nhà L. H và A chia cho H1 và C mỗi người một con lợn. Còn 04 con H và A bán cho L được 4.000.000đ chia nhau, H1 bán cho L 01 con được 1.000.000đ. C nhờ L thịt đem về nhà ăn. Số lợn mua được, L bán ra chợ cho những người không quen biết. Số tiền bán lợn H, A, H1, L chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 12 con lợn của gia đình chị Mai tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 36.000.000đ.

Vụ thứ 2; Khoảng 01 giờ một ngày giữa tháng 2/2020, C và H đến nhà L lấy công cụ phương tiện. C chở H bằng xe mô tô BKS 36B2- 671.02 đến xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang xem nhà ai nuôi lợn vào trộm cắp. Khi đến nhà anh Nguyễn Văn Cảnh, sinh năm 1968 ở thôn Ngoẹn, xã Tiên Lục không có ai trông coi, cửa ra vào làm bằng sắt B40. C ở ngoài cảnh giới, H dùng kìm cộng lực cắt khóa dùng kích điện bắt lợn 05 con lợn về bán cho L được 6.000.000đ chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 53/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 05 con lợn của gia đình anh Cảnh tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 12.500.000đ.

Vụ thứ 3: Khoảng 02 giờ vào một ngày tháng 3/2020, C, H và B đến nhà L lấy công cụ phương tiện đi trộm cắp tài sản. B ở nhà L chờ. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H đến khu chăn nuôi của anh Nguyễn Văn Cảnh, sinh năm 1968 ở thôn Ngoẹn, xã Tiên Lục. C ở ngoài cảnh giới, H dùng kích điện bắt 04 con lợn nhỏ và 02 con lợn to cùng C mang về bán cho L. H và C cho B 700.000đ, còn lại chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 54/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 04 con lợn nhỏ, 02 con lợn to của gia đình anh Cảnh tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 19.000.000đ.

Vụ thứ 4: Khoảng 04 giờ ngày 05/3/2020, C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H và mang theo công cụ phương tiện đến khu chăn nuôi của chị Nguyễn Thị Hiển, sinh năm 1973, ở thôn Cầu Đen, xã Quang Thịnh, huyện Lạng Giang thấy cửa ra vào khu chăn nuôi che bằng bạt và tấm gỗ, không có khóa. C ở ngoài cảnh giới, H vào dùng kích điện bắt 01 con lợn loại áp siêu 02 tháng tuổi có trọng lượng 15 kg/1 con, mang về nhà L bị chết nên thịt chia làm 3 phần gồm: C, H và L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 51/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 01 con lợn lai áp siêu giống có trọng lượng 15 kg của nhà chị Hiển tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 2.500.000đ.

Vụ thứ 5: Rạng sáng ngày 06/3/2020, H và C đến nhà L lấy công cụ, phương tiện đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H đi tìm nhà nào nuôi lợn vào trộm cắp. Khoảng 03 giờ cùng ngày, đi qua nhà anh Vũ Văn Hiệu, sinh năm 1965 ở thôn Tuấn Thịnh, xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang nuôi lợn, thấy cổng khóa. C ở ngoài cảnh giới, H dùng kìm cộng lực cắt khóa vào chuồng lợn bắt 02 con lợn khoảng 15 kg/1 con, cùng C mang lợn về bán cho L được 1.500.000đ, chia nhau mỗi người 750.000đ, H và C chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 50/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 02 con lợn lai áp siêu có trọng lượng 15 kg/ 1 con của nhà anh Hiệu tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 5.000.000đ.

Vụ thứ 6: Sáng ngày 04/3/2020, C, H đến nhà L lấy công cụ phương tiện đi trộm cắp. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H đi tìm nhà nào nuôi lợn vào trộm cắp. Khi đi qua nhà anh Hà Văn Giới, sinh năm 1977 ở thôn Tê, xã Tân Thanh. C và H thấy khu chăn nuôi không có người trông coi, cửa ngoai làm bằng tôn, sắt buộc dây, không khóa. C ở ngoài cảnh giới, H mở cửa vào dùng kích điện bắt 05 con lợn, mỗi con khoảng 23 kg cho vào bao cùng C mang về bán cho L được 6.500.000đ, chia nhau chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 56/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 05 con lợn có trọng lượng 15kg/1con của nhà anh Giới tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 11.500.000đ.

Vụ thứ 7: Rạng sáng ngày 13/3/2020, H, C và B rủ nhau đến nhà L lấy công cụ phương tiện đi trộm cắp tài sản. C điều khiển xe mô tô BKS 36B2- 671.02 chở H. B điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ- đen BKS 98B3- 467.38 cùng nhau đi đến khu chăn nuôi lợn của anh Hà Văn Giới. B và C ở ngoài trông xe, cảnh giới. H dùng kích điện bắt 04 con lợn. C, H và B mang về bán cho L được 5.000.000, cho B 800.000đ, còn lại H và C chia đôi, chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 55/KL- ĐGTS ngày 08/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: 04 con lợn có trọng lượng 30 kg/1 con của nhà anh Giới tại thời điểm chiếm đoạt có giá trị 10.400.000đ.

Trong vụ án này, Nguyễn Văn H thực hiện 25 vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản trộm cắp là 290.730.000đ. Nguyễn Văn C thực hiện 21 vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản là 240.400.000đ. Hà Văn B thực hiện 14 vụ trộm cắp với tổng giá trị tài sản là 181.150.000đ. Hà Minh A thực hiện 05 vụ trộm cắp với tổng giá trị là 67.970.000đ. Hà Văn H1 thực hiện 01 vụ trộm cắp với giá trị tài sản là 18.000.000đ. Nguyễn Văn L không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, nhưng cùng các bị cáo chuẩn bị công cụ phương tiện, đổ xăng xe cho các bị cáo đi trộm cắp tài sản và hứa hẹn trước với H, A, C, B và H1 về việc mua tài sản trộm cắp của 25 vụ nên Nguyễn Văn L là đồng phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng giá trị tài sản của 25 vụ trộm cắp tài sản là 290.370.000đ Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L thấy: Tại phiên tòa, các bị cáo chỉ có yêu cầu kháng cáo xin giảm hình phạt nên các vấn đề khác của án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm không đặt ra giải quyết.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Án sơ thẩm xác định bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L phạm tội có tổ chức và phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm a, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, là có căn cứ.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định trong quá trình điều tra truy tố xét xử, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo Nguyễn Văn C đầu thú và tự thú một số hành vi trộm cắp tài sản ở huyện Yên Dũng, Lục Nam, Lạng Giang và Tân Yên. Do vậy, bị cáo Nguyễn Văn C được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, điểm s, điểm r khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo Nguyễn Văn L được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ. Chỉ vì lợi ích trước mắt bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Việc truy tố, xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 07 (Bẩy) năm 02 (Hai) tháng tù; bị cáo Nguyễn Văn L 07(Bẩy) năm 03 (Ba) tháng tù; cùng về tội “Trộm cắp tài sản” là tương xứng với hành vi phạm tội, không nặng đối với bị cáo.

Tại quá trình xét xử phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L xuất trình các tình tiết giamr nhẹ trách nhiệm hình sự mới đó là: Trong thời gian tại ngoại các bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L đã có thành tích hợp tác với Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Giang trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm được Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Giang xác nhận và đề nghị Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang xem xét công nhận thành tích của các bị cáo để được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử thấy, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm mới phát sinh chưa được áp dụng cho các bị cáo tại cấp sơ thẩm theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L; sửa bản án sơ thẩm.

- Áp dụng điểm a khoản 3, khoản 5 Điều 173; điểm b, r, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 07 ( bẩy ) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2020 đến ngày 07/9/2020.

- Áp dụng điểm a khoản 3, khoản 5 Điều 173; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 07 ( bẩy) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2020 đến ngày 07/9/2020.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 98/2021/HS-PT

Số hiệu:98/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về