Bản án về tội trộm cắp tài sản số 95/2018/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 95/2018/HS-ST NGÀY 13/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 87/2018/HSST ngày 15 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Bá C - sinh năm 1995 Nơi cư trú: Ấp A, xã H, huyện H, tỉnh V.

Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn H - 1970 và bà Lê Thị Thu T - 1971; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: 02 lần Ngày 18/6/2018 bị Công an Phường 8, thành phố V xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, đã nộp phạt xong ngày 25/7/2018.

Ngày 08/6/2016 bị Công an Phường 1, thành phố V xử phạt hành chính số tiền 900.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa nộp phạt.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Trần Quốc L – 1957; địa chỉ: Số 61 đường H, Phường T, thành phố V, tỉnh V. (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Phan Minh S – 1980; địa chỉ: Số 112/41 đường H, Phường T, thành phố V, tỉnh V. (vắng mặt) 2. Tạ Tấn Đ – 2003 (vắng mặt)

Người đại diện hợp pháp: Tạ Tấn T – 1984 (cha của Đ) (vắng mặt) Cùng địa chỉ: L28 đường H, Phường T, thành phố V, tỉnh V.

3. Ngô Hoàng N – 2004 (vắng mặt) Người đại diện hợp pháp: Ngô Thanh H – 1976 (cha của N) (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Số 266M đường L, Phường T, thành phố V, tỉnh V.

4. Nguyễn Hoài D – 2002 (vắng mặt) Người đại diện hợp pháp: Nguyễn Thị Thu Q – 1986 (mẹ của D) (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Số 198K đường L, Phường T, thành phố V, tỉnh V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 11/7/2018 Nguyễn Bá C đi xe đạp đến khu dân cư Phường T, thành phố V để mua thuốc hút thì gặp bạn là Nguyễn Hoài D nên cả hai cùng đi uống cà phê, trên đường đi gặp Tạ Tấn Đ đi xe đạp chở Ngô Hoàng N. Lúc này D rủ C, N và Đ đi tìm tài sản để trộm thì tất cả đồng ý. D đạp xe chở C, Đ đạp xe chở N, khi đi ngang tiệm sắt Đ tại số 53 đường H, Phường T, thành phố V thấy không có người trông coi nên tất cả đến đống sắt trước cửa tiệm để lấy trộm. Tất cả cùng đi vào trộm 05 miếng sắt (loại sắt đã qua sử dụng hiện trạng bị rỉ sét) để lên hai xe đạp đem đi khỏi hiện trường. Sau đó C, D, Đ, N chở sắt đến vựa phế liệu đường H, Phường T do anh Phan Minh S làm chủ, lúc đầu anh S không đồng ý mua thì D lớn tiếng đe dọa đập phá tiệm nên anh S mới mua số sắt trên. D bán cho anh S được 54 ký được 270.000 đồng. Sau khi bán sắt xong D tiếp tục rủ C, Đ và N quay lại tiệm sắt Đ để lấy trộm sắt. C để xe đạp bên hẻm Trường trung học Lương Thế Vinh rồi cùng D đến đống sắt lấy trộm 01 miếng đem qua lộ đến chỗ để xe đạp. N và Đ lấy trộm 02 miếng chưa kịp chở đi thì bị Công an Phường T phát hiện C, D, N chạy thoát, còn Đ bị Công an Phường T bắt giữ cùng tang vật là 03 miếng sắt nặng 66 ký.

Đến ngày 12/7/2018 Công an phường T mời C, D và N đến làm việc. qua làm việc tất cả đều khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp như trên. Tổng số sắt C, D, N và Đ lấy trộm trong 02 lần là 120 kg.

Kết luận định giá tài sản số 102/HĐĐG&TTHS ngày 24/7/2018 của Hội đồng định giá thành phố V kết luận: 120 kg sắt trị giá 540.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Bản cáo trạng số 88/CT-VKS.TPVL ngày 06/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Nguyễn Bá C về tội “Trộm cắp tài sản” theo qui định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V tham gia xét xử đã nêu quan điểm luận tội: Khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Bá C từ 06 đến 09 tháng từ.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Quốc L đã nhận lại số tài sản bị mất nên không có yêu cầu bồi thường nên không đặt ra giải quyết.

Bị cáo Nguyễn Bá C đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình đúng như cáo trạng đã nêu và đồng ý với tội danh mà bị cáo bị truy tố. Bị cáo không tham gia tranh luận, trong phần nói lời sau cùng không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo C khai nhận: Để có tiền tiêu xài cá nhân, khoảng 20 giờ ngày 11/7/2018 bị cáo đã cùng với những người bạn tên D, Đ và N đi xe đạp đến tiệm sắt Đ trên đường H, Phường T để lấy trộm sắt, lần đầu trộm được 05 miếng sắt bán được 270.000 đồng, lần sau trộm tiếp 03 miếng chưa kịp đem đi tiêu thụ thì bị phát hiện bắt quả tang. Tổng cộng hai lần bị cáo và những người bạn trộm 120 kg sắt trị giá 540.000 đồng.

Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 qui định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”. Bị cáo trộm cắp tài sản giá trị dưới 2.000.000 đồng, nhưng ngày 18/6/2018 bị Công an Phường T, thành phố V xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, đã nộp phạt xong nhưng đến ngày bị cáo phạm tội chưa quá 01 năm nên không được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản’’ tội danh và hình phạt được được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 như Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tội phạm ít nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản người khác. Bị cáo có đầy đủ năng lực để nhận thức được tài sản thuộc quyền sử hữu của người khác phải được mọi người tôn trọng, được pháp luật bảo vệ, nếu ai xâm phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. Bị cáo là thanh niên có sức khỏe nhưng không chịu lao động, để có tiền tiêu xài cá nhân mà không phải lao động cực nhọc nên đã nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý điều đó thể hiện ý thức xem thường pháp luật, gây mất trật tự xã hội và tâm lý lo lắng trong nhân dân. Vì vậy, với hành vi phạm tội này, bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm với một hình phạt tương ứng trong khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo được tính răn đe, giúp bị cáo học tập, cải tạo bản thân trở thành một người công dân có ích và cũng góp phần phòng ngừa chung cho xã hội.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội gây thiệt hại không lớn. Đây cũng là những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Đối với Tạ Tấn Đ, Nguyễn Hoàng N và Nguyễn Hoài D lúc thực hiện hành vi trộm cắp tài sản chưa có tiền án, tiền sự; giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nên hành vi này không cấu thành tội phạm. Công an thành phố V ra quyết định xử phạt hành chính đối với Đ và N là có căn cứ. Đối với Nguyễn Hoài D đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Trần Quốc L đã nhận lại số tài sản bị mất nên không có yêu cầu bồi thường nên không đặt ra giải quyết.

Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

I. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá C 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

II. Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án và danh mục ban hành kèm theo;

Buộc bị cáo Nguyễn Bá C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 95/2018/HS-ST

Số hiệu:95/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về