Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 94/2021/HS-PT NGÀY 24/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Đ.T.S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 29/2021/HS-ST ngày 07 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.

- Bị cáo có kháng cáo: Đ.T.S (Đ), sinh năm 1992 tại tỉnh An Giang; nơi cư trú: ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đ.V.T và bà N.T.H; sống như vợ chồng với N.K.H, sinh năm 1996; con: có 01 người con sinh năm 2018 (mang họ mẹ); tiền án: tại Bản án số 10/2015/HSST ngày 29/01/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang đã xử phạt 02 năm tù về “Tội cướp tài sản” và 03 năm 06 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt chung 05 năm 06 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/9/2018; tiền sự: không; nhân thân: tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 95/QĐ-XPHC ngày 05/10/2020 của Công an xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”, chưa nộp phạt; bị tạm giam thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 05/10/2020 đến ngày 02/01/2021, sau đó được trả tự do; bị cáo tại ngoại; có đơn xin xét xử vắng mặt. (Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo N.N.L nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 01/10/2020, Công an xã V, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre nhận được tin báo của quần chúng nhân dân là tại nhà của N.N.L có nhiều đối tượng tụ tập sử dụng ma túy nên tiến hành kiểm tra thì phát hiện có 05 người gồm: N.N.L, Đ.T.S, H.C.H, P.T.C.H và L.T.Đ, đồng thời phát hiện tại nhà của N.N.L có treo 16 cái lồng chim bên trong có 15 con chim cu và 02 con chim sáo không rõ nguồn gốc nên tiến hành lập biên bản tạm giữ.

Qua điều tra, Đ.T.S và N.N.L đã khai nhận cùng nhau thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre, cụ thể:

- Vào đêm 28 rạng sáng ngày 29/9/2020, Đ.T.S và N.N.L lén lút lấy trộm của anh N.N.T (sinh năm 1983, nơi cư trú: ấp T, xã V, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) 01 con chim cu, 01 cái lồng chim; lấy trộm của anh H.T.H (sinh năm 1979, nơi cư trú: ấp L, xã P, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) 01 con chim cu; lấy trộm của anh N.T.P (sinh năm 1982, nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) 02 con chim cu, 01 con chích chòe, 03 cái lồng chim; lấy trộm của anh N.T.N (sinh năm 1985, nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) 01 con chim cu, 02 con chích chòe, 03 cái lồng chim. Theo Kết luận định giá tài sản số 78 ngày 26/10/2020, số 84 ngày 10/12/2020, số 06 ngày 19/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Chợ Lách kết luận: 01 con chim cu, 01 cái lồng chim của anh N.N.T trị giá 2.050.000 đồng; 01 con chim cu của anh H.T.H trị giá 2.500.000 đồng; 02 con chim cu, 01 con chích chòe, 03 cái lồng chim của anh N.T.P trị giá 2.090.000 đồng; 01 con chim cu, 02 con chích chòe, 03 cái lồng chim của anh N.T.N trị giá 2.600.000 đồng. Tổng cộng: 9.240.000 đồng.

- Vào đêm 29 rạng sáng ngày 30/9/2020, Đ.T.S và N.N.L lén lút lấy trộm của anh Đ.H.L (sinh năm 1979, nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) 02 con chim sáo và 01 cái lồng chim; lấy trộm của anh N.T.T (sinh năm 1988, nơi cư trú: ấp Đ, xã V, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) 03 con chim cu, 03 cái lồng chim; lấy trộm của anh B.T.L (sinh năm 1990, nơi cư trú: ấp V, xã V, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) 04 con chim cu, 04 cái lồng chim, 01 đôi dép. Theo Kết luận định giá tại sản số 72 ngày 02/10/2020, số 84 ngày 10/12/2020, số 06 ngày 19/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Chợ Lách kết luận: 02 con chim sáo và 01 cái lồng chim của anh Đ.H.L trị giá 600.000 đồng; 03 con chim cu, 03 cái lồng chim của anh N.T.T trị giá 1.750.000 đồng; 04 con chim cu, 04 cái lồng chim, 01 đôi dép của anh B.T.L trị giá 2.700.000 đồng. Tổng cộng: 5.050.000 đồng.

- Vào đêm 30/9 rạng sáng ngày 01/10/2020, Đ.T.S và N.N.L lén lút lấy trộm của anh L.V.S (sinh năm 1982, nơi cư trú: ấp L, xã T, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) 02 cây mai vàng; lấy trộm của chị L.T.B.L (sinh năm 1980, nơi cư trú: ấp T, xã H, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre) 03 cây mai vàng. Theo Kết luận định giá tài sản số 78 ngày 26/10/2020 và số 06 ngày 19/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Chợ Lách kết luận: 02 cây mai vàng của anh L.V.S trị giá 10.000.000 đồng;

03 cây mai vàng của chị L.T.B.L trị giá 1.200.000 đồng. Tổng cộng: 11.200.000 đồng.

Ngoài ra, bị cáo N.N.L còn một mình thực hiện thêm 02 vụ trộm cắp tài sản của người khác.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 29/2021/HS-ST ngày 07-4-2021 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Đ.T.S phạm “Tội trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Đ.T.S 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án nhưng được trừ thời gian tạm giam từ ngày 05/10/2020 đến ngày 02/01/2021.

Ngoài ra; Bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với bị cáo N.N.L, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm; ngày 19/4/2021 bị cáo Đ.T.S kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Theo “Đơn kháng cáo” đề ngày 19/4/2021, bị cáo Đ.T.S trình bày: vào ngày 07/4/2021, Tòa án nhân dân huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre xử phạt bị cáo 02 năm tù về “Tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, nhận thấy Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù là quá nặng so với hành vi phạm tội của bị cáo; bởi vì bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phía bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình bị cáo có công với cách mạng, có bà nội ruột được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, có hai bác ruột là liệt sĩ, có cô ruột được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất, bị cáo rất hối hận và ăn năn hối cải về việc làm của mình; bị cáo kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt tù để sớm làm lại cuộc đời và phụ giúp gia đình. Bị cáo có “Đơn xin xét xử vắng mặt” đề ngày 06/10/2021, với lý do: tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, bị cáo là người ở địa phương khác (tỉnh An Giang), việc di chuyển, đi lại giữa các địa phương rất khó khăn. Bị cáo giữ nguyên kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.

- Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định; đơn xin xét xử vắng mặt của bị cáo phù hợp với quy định của phạp luật.

Về tội danh; Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Đ.T.S phạm “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Về hình phạt; Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Đ.T.S 02 năm tù là tương xứng; kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đ.T.S 02 (hai) năm tù về “Tội trộm cắp tài sản”. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

- Bị cáo không tranh luận.

- Bị cáo nói lời sau cùng: theo “Đơn xin xét xử vắng mặt” đề ngày 06/10/2021, bị cáo trình bày lời nói sau cùng như sau: xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét hoàn cảnh gia đình của bị cáo, là gia đình chính sách, có công với cách mạng, bà nội ruột là người tham gia kháng chiến được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, có hai bác ruột là liệt sĩ, có cô ruột tham gia kháng chiến được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến tù đài; bị cáo là lao động chính trong gia đình, hiện nuôi cha mẹ già yếu và vợ con. Do dịch bệnh làm ăn không được, bị cáo nghĩ không thông suốt, nghe lời bạn bè lôi kéo nên đi vào con đường phạm tội, nay bị cáo rất ăn năn hối cải về việc làm của mình, phía bị hại có xin giảm nhẹ cho bị cáo. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm án tù cho bị cáo để bị cáo sớm trở về hoàn lương, chăm lo cho gia đình, nuôi cha mẹ già yếu, vợ và con còn nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm; bị cáo có “Đơn xin xét xử vắng mặt” đề ngày 06/10/2021, với lý do: tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, bị cáo là người ở địa phương khác (tỉnh An Giang), việc di chuyển, đi lại giữa các địa phương rất khó khăn; “Đơn xin xét xử vắng mặt” của bị cáo phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: căn cứ vào lời khai của bị cáo kết hợp với các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định:

- Vào đêm 28 rạng 29/9/2020, bị cáo Đ.T.S cùng bị cáo N.N.L lén lút lấy trộm: của anh N.N.T 01 con chim cu, 01 cái lồng chim; của anh H.T.H 01 con chim cu; của anh N.T.P 02 con chim cu, 01 con chích chòe, 03 cái lồng chim; của anh N.T.N 01 con chim cu, 02 con chích chòe, 03 cái lồng chim. Trị giá: 9.240.000 đồng;

- Vào đêm 29 rạng 30/9/2020, bị cáo Đ.T.S cùng bị cáo N.N.L lén lút lấy trộm: của anh Đ.H.L 02 con chim sáo và 01 cái lồng chim; của anh N.T.T 03 con chim cu, 03 cái lồng chim; của anh Bùi Trần Lãm 04 con chim cu, 04 cái lồng chim, 01 đôi dép. Trị giá: 5.050.000 đồng;

- Vào đêm 30/9 rạng 01/10/2020, bị cáo Đ.T.S cùng bị cáo N.N.L lén lút lấy trộm: của anh L.V.S 02 cây mai vàng; của chị L.T.B.L 03 cây mai vàng. Trị giá: 11.200.000 đồng;

Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo Đ.T.S và N.N.L cùng nhau chiếm đoạt của các bị hại là: 25.490.000 đồng.

[3] Về tội danh: bị cáo Đ.T.S là người thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự; vì động cơ tư lợi, mục đích chiếm đoạt tài sản đã cùng với bị cáo N.N.L thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của nhiều bị hại với tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 25.490.000 đồng; bị cáo phạm tội với lỗi cố ý; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của các bị hại, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Với ý thức, hành vi và giá trị tài sản chiếm đoạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Đ.T.S phạm “Tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Đ.T.S yêu cầu giảm nhẹ hình phạt, thấy rằng:

Khi áp dụng hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: bị cáo đã bị kết án về các tội cướp tài sản và trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản nên có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại nên có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo nuôi con chưa thành niên, có bà nội là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, có người thân có công với đất nước nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đã xử phạt bị cáo 02 năm tù;

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy bị cáo đã bị kết án về tội cướp tài sản và tội trộm cắp tài sản thuộc các tội chiếm đoạt, chưa được xóa án tích lại phạm tội trộm cắp tài sản thuộc tội chiếm đoạt; liên tiếp trong 03 ngày bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác mà mỗi lần trộm cắp tài sản đều có giá trị trên 2.000.000 đồng nhưng dưới 50.000.000 đồng, bị cáo phạm tội có 02 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” và “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm h, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; sau khi thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản thì bị cáo lại bị xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; điều đó chứng tỏ bị cáo có nhân thân không tốt, không chỉ xem thường pháp luật mà còn xem thường tài sản của người khác, là người khó cải tạo giáo dục. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và hậu quả do bị cáo gây ra, xử phạt bị cáo 02 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo; tại cấp phúc thẩm bị cáo nêu ra tình tiết có con còn nhỏ, gia đình có người thân có công với đất nước, nhưng những tình tiết này đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Xét thấy quyết định của Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo có căn cứ và đúng pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên không chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

[5] Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đ.T.S; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 29/2021/HS-ST ngày 07/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Đ.T.S 02 (hai) năm tù về “Tội trộm cắp tài sản”, nhưng được trừ thời gian tạm giam 03 (ba) tháng (từ ngày 05/10/2020 đến ngày 02/01/2021), thời hạn còn lại phải chấp hành là 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù;

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù.

2. Về án phí: căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Bị cáo Đ.T.S phải nộp: 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo N.N.L; xử lý vật chứng và án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 94/2021/HS-PT

Số hiệu:94/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về