TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 92/2024/HS-ST NGÀY 03/04/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 4 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 94/2024/TLST-HS ngày 07 tháng 03 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Hoàng Đ; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 05/7/1984 tại tỉnh Điện Biên; Nơi đăng ký NKTT: Tổ dân phố 06, phường T B, thành phố Đ, tỉnh B; Chỗ ở trước khi bị bắt: Số nhà 73, tổ dân phố 02, phường T T, thành phố thành phố Đ, tỉnh B; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Hoàng L (đã chết) và con bà Lê Thị Q; Vợ: Bùi Thị H, đã ly hôn; bị cáo có 01 con sinh năm 2012; Tiền án: Không;
Tiền sự: 01 tiền sự, cụ thể: Ngày 05/10/2023 bị Uỷ ban nhân dân phường Thanh T, ra quyết Đ số 01 ngày 05/10/2023 áp dụng xử lý hành chính tại phường Thanh T trong thời hạn là 03 tháng kể từ ngày 05/10/2023.
Nhân thân:
Bản án số 32 ngày 16/02/2004 bị Toà án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử Bùi Hoàng Đ 09 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 135BLHS năm 1999. Ngày 04/6/2004 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.
Bản án số 122 ngày 29/6/2020 bị Toà án nhân dân huyện Điện Biên xét xử Bùi Hoàng Đ 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 249BLHS. Ngày 17/5/2021 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.
Ngày 18/8/2000 Bùi Hoàng Đ bị Công an thị xã Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu ra Quyết định xử lý hành chính số 130 ngày 18/8/2000 phạt cảnh cáo về hành vi gây rối trật tự công cộng.
Ngày 21/8/2007 Bùi Hoàng Đ bị Công an thành phố Điện Biên Phủ ra Quyết định xử lý hành chính số 259 ngày 21/8/2007 phạt 300.000 đồng về hành vi đánh bạc.
Ngày 01/8/2017 Bùi Hoàng Đ bị Toà án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc Quyết định xử lý hành chính số 21 ngày 01/8/2017 thời hạn 12 tháng. Ngày 03/8/2018 chấp hành xong.
Bị cáo đã chấp hành xong các Bản án và Quyết định nêu trên nên được coi là xoá án tích đối với các bản án và chưa bị xử lý vi phạm hành chính đối với các Quyết định.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 23/12/2023 cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).
* Bị hại: Chị Lò Thị H, sinh năm 1988; Địa chỉ: Bản HL 1, phường HL, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (có đơn xin xét xử vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lường Quang T, sinh năm 1993; Địa chỉ: Bản NX, phường NT, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 21/12/2023 Bùi Hoàng Đ đi vào trong khu vực sân vận động tỉnh Điện Biên để xem bóng đá thì thấy có 01 chiếc xe đạp thể thao màu đen, trên thân và khung xe có chữ TRINX và TX16, trên khung xe có chữ số B5486054, xe cũ đã qua sử dụng của chị Lò Thị H, sinh năm 1988, trú tại Bản HL 1, phường HL, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên dựng trong gara. Đ quan sát xung quanh không thấy có người trông coi nên đã nẩy sinh ý Đ trộm cắp xe. Đ lấy xe và đạp xe xuống C17, xã Thanh Xương, huyện Điện Biên theo hướng đường Quốc lộ 279. Trên đường đi, Đ rẽ vào một cửa hàng tạp hoá mua một cuộn băng dính màu đen quấn vào khung xe và thân xe, mục đích làm thay đổi đặc điểm của xe để không bị phát hiện. Tới chợ C17 Đ không tìm được cửa hàng nào mua bán xe, Đ quay về hướng thành phố Điện Biên Phủ. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, khi đến cây xăng C4 thì Đ gặp lại bạn là Lường Quang T, sinh năm 1993; Địa chỉ: Bản NX, phường NT, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên nên đã gửi nhờ xe đạp và nói là xe của em Đ. T đồng ý, rồi cả hai đi về nhà T để cất xe, sau đó T gọi xe ôm cho Đ đi về. Đến khoảng 11 giờ 15 phút ngày 22/12/2023, Đ đi bộ xuống nhà T lấy xe mang đi bán, khi đi đến đầu ngõ vào nhà T thuộc bản NX, phường NT, thành phố Điện Biên Phủ thì bị tổ công tác Công an thành phố Điện Biên Phủ phát hiện lập biên bản thu giữ vật chứng.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc xe đạp thể thao màu đen, trên thân và khung xe có chữ TRINX và TX16, trên khung xe có chữ số B5486054, xe cũ đã qua sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự: Chị Lò Thị H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác.
Tại Bản kết luận Đ giá tài sản số: 63/KL ngày 22/12/2023 của Hội đồng Đ giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Điện Biên Phủ xác Đ: 01 chiếc xe đạp thể thao màu đen, trên thân và khung xe có chữ TRINX và TX16, trên khung xe có chữ số B5486054, xe cũ đã qua sử dụng có giá trị 3.000.000 đồng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng Đ giá nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKSTPĐBP ngày 07/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Bùi Hoàng Đ về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Hoàng Đ từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc bị hại nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm thiệt hại.
- Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về phần luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Bùi Hoàng Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với đơn trình báo, biên bản tiếp nhận nguồn tin tội phạm, bản tự khai và mọi lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Kết luận Đ giá, Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, có đủ cơ sở khẳng Đ: Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 21/12/2023 tại Sân vận động tỉnh Điện Biên, Bùi Hoàng Đ đã có hành vi lén lút bí mật chiếm đoạt tài sản là 01 chiếc xe đạp thể thao, màu đen của chị Lò Thị H có giá trị 3.000.000 đồng, hành vi của bị cáo vi phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”:
[2] Về tính chất, mức độ, động cơ hành vi phạm tội của bị cáo: Vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại khu vực Sân vận động tỉnh Điện Biên, gây dư luận xấu trên địa bàn tỉnh. Bị cáo đã coi thường pháp luật. Chính vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.
Tiền sự: 01 tiền sự, cụ thể: Ngày 05/10/2023 bị Uỷ ban nhân dân phường Thanh T, ra quyết Đ số 01 ngày 05/10/2023 áp dụng xử lý hành chính tại phường Thanh T trong thời hạn là 03 tháng kể từ ngày 05/10/2023.
Nhân thân:
Bản án số 32 ngày 16/02/2004 bị Toà án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử Bùi Hoàng Đ 09 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 135BLHS năm 1999. Ngày 04/6/2004 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù; Bản án số 122 ngày 29/6/2020 bị Toà án nhân dân huyện Điện Biên xét xử Bùi Hoàng Đ 01 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 249BLHS. Ngày 17/5/2021 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.
Ngày 18/8/2000 Bùi Hoàng Đ bị Công an thị xã Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu ra Quyết định xử lý hành chính số 130 ngày 18/8/2000 phạt cảnh cáo về hành vi gây rối trật tự công cộng.
Ngày 21/8/2007 Bùi Hoàng Đ bị Công an thành phố Điện Biên Phủ ra Quyết định xử lý hành chính số 259 ngày 21/8/2007 phạt 300.000đồng về hành vi đánh bạc.
Ngày 01/8/2017 Bùi Hoàng Đ bị Toà án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc Quyết định xử lý hành chính số 21 ngày 01/8/2017 thời hạn 12 tháng. Ngày 03/8/2018 chấp hành xong.
Bị cáo đã chấp hành xong các Bản án và Quyết định nêu trên nên được coi là xoá án tích đối với các bản án và chưa bị xử lý vi phạm hành chính đối với các Quyết định. Bị cáo có nhân thân xấu.
[4] Hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Cần thiết phải áp dụng mức hình phạt tù phù hợp, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cho bị cáo có thời gian cai nghiện để trở thành công dân tốt, có ý thức tuân thủ pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản gì có giá trị, bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành.
[6] Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: 01 chiếc xe đạp thể thao màu đen, trên thân và khung xe có chữ TRINX và TX16, trên khung xe có chữ số B5486054, xe cũ đã qua sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu bồi thường gì khác; Về trách nhiệm hình sự đề nghị HĐXX xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật. Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc đề nghị của bị hại là có căn cứ, do vậy HĐXX chấp nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với anh Lường Quang T là người cho bị cáo gửi nhờ xe nhưng không biết tài sản đó là do bị cáo phạm tội mà có, nên cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý, anh T có đơn xin xét xử vắng mặt.
[7] Về các hành vi, quyết Đ tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết Đ của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết Đ tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;
1. Tuyên bố bị cáo Bùi Hoàng Đ phạm tội "Trộm cắp tài sản". Xử phạt bị cáo Bùi Hoàng Đ 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam (23/12/2023).
2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận bị hại nhận được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; khoản 3 Điều 106 BLTTHS: Chấp nhận Biên bản trao trả tài sản của cơ quan điều tra cho chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản là chiếc xe đạp.
5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 03/4/2024). Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo về phần có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 92/2024/HS-ST
Số hiệu: | 92/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về