Bản án về tội trộm cắp tài sản số 921/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 921/2023/HS-PT NGÀY 08/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 525 2023 PT ngày 20 tháng 7 năm 2023 Do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H, Lê Hữu H1 (H) và Nguyễn Thị C đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2023/HS-ST ngày 16/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Các bị cáo kháng cáo:

1. Nguyễn Thị Ngọc H: sinh ngày: 07/8/1978; tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn K (đã chết) và bà Nguyễn Thị B (đã chết); chồng Lê Hồng T, sinh năm 1974; con có 03 người; tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt, tạm giam từ ngày 24/6/2021 (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H theo Luật định: Luật sư Nguyễn Văn T1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt)

2. Lê Hữu H1 (H); sinh năm: 1985; tại tỉnh Bình Phước; nơi cư trú: tổ H, ấp I, xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu K1 và bà Trần Thị H2; vợ Lê Thị H3, sinh năm 1987 (đã ly hôn); con c 01 người; tiền sự: không; tiền án: tại Bản án số 12/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hàng xong 23 9 2021; chưa được xóa án tích;

Bị tạm giữ ngày 14/10/2022; tạm giam ngày 17/10/2022 - (có mặt);

Người bào chữa cho bị cáo Lê Hữu H1 theo Luật định: Luật sư Nguyễn Văn T1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt)

3. Mai Thị C1; sinh ngày: 10/4/1993; tại: Campuchia; nơi cư trú: ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: biết đọc và viết chữ việt nam; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị D (đã chết); chồng Trần Văn T2, sinh năm 1993; con c 03 người; tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo Mai Thị C1 theo Luật định: Luật sư Đinh Yến N, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt)

(Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Đình D1 có kháng cáo nhưng đã rút kháng cáo; bị hại Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thị Hồng T3 không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thị Ngọc H có chồng về sinh sống tại huyện H, tỉnh Bình Phước nên quen biết và chơi chung với Nguyễn Đình D1, Nguyễn Thị L1 (tên gọi khác Ú) vợ D1, H c mượn của D1 số tiền 15 000 000 đồng nhưng chưa trả. Vào khoảng tháng 05/2022, do không có tiền trả nợ và tiêu xài, H rủ Mai Thị C1 (là cháu dâu của H) tìm nhà người dân tại xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh có tài sản để lấy trộm chia nhau tiêu xài thì C1 đồng ý.

Mai Thị C1 biết rõ gia đình chị Nguyễn Thị Hồng T3 làm nghề mổ, bán thịt lợn hơi c nhiều tiền và biết mọi sinh hoạt của gia đình chị T3 (sẽ thường xuyên vắng nhà vào chiều thứ sáu và chủ nhật hàng tuần để đ n, đưa con đi học tại thành phố T) nên chỉ nhà chị T3 cho H. Biết được thông tin, H rủ Nguyễn Đình D1 và D1 rủ thêm Lê Hữu H1 thống nhất vào ngày 29/5/2022 (ngày chủ nhật) sẽ đến nhà chị T3 trộm tài sản.

Vào khoảng 11 giờ ngày 29/5/2022, D1 chuẩn bị 02 cây xà beng và điều khiển xe Wave không gắn biển số chở H1 từ tỉnh Bình Phước sang khu vực xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh để gặp H. Khi D1 và H1 đến quán bún thịt nướng của chị Nguyễn Thị Thu N1 tại ấp Đ, xã T, huyện T thì D1 điện thoại cho H biết. Lúc này, H điện thoại cho C1 kêu C1 kiểm tra chị T3 có ở nhà hay không, C1 điện thoại chị T3 và biết được chị T3 không có ở nhà nên C1 thông báo lại cho Hóau đ , H mượn xe mô tô Honda Cup AMD, không gắn biển số của gia đình chị ruột là Nguyễn Thị L2 (chồng là ông Trần Văn N2) đi đến quán bún và dẫn đường cho D1 và H1 đi đến nhà chị T3 để trộm tài sản.

Khi đến nhà chị T3, D1 kêu H canh gác trước nhà, H đi đến quán nước mía của bà Lê Thị B1 đối diện nhà chị T3 để cảnh giới, D1 chở H1 đi đến chỗ bán đồ dùng gia dụng ven đường cách nhà chị T3 khoảng 200 mét mua 01 cây đội (làm công cụ cạy phá) và 01 cây ná thun. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, sau khi đi quan sát chung quanh nhà chị T3, H1 và D1 phát hiện con hẻm cách nhà chị T3 khoảng 50 mét nên điều khiển xe vào hẻm giấu xe, cả hai đi bộ ra phía sau nhà chị T3. D1 và H1 chui qua lỗ trống có sẳn của hàng rào B40 vào bên trong khuôn viên nhà, D1 đi đến cửa sổ phòng bếp, dùng cây đội bẻ 02 song sắt của sổ tạo ra khoảng trống và cùng H1 đột nhập vào bên trong nhà chị T3. Khi vào trong nhà, D1 đi đến rút dây điện camera ra khỏi ổ cắm, D1 và H1 vào bên trong phòng ngủ của vợ chồng chị T3 thì phát hiện có 01 két sắt và 02 con heo đất màu đỏ. D1 và H1 đập 02 con heo đất lấy số tiền 450.000.000 đồng, sử dụng xà beng cạy cửa két sắt lấy số tiền 935.000.000 đồng và 01 đôi bông tai vàng 24K, trọng lượng 01 chỉ au đ , D1 điện thoại thông báo cho H biết đã trộm được tài sản, hẹn H khoảng 02 ngày nữa đến nhà D1 chia tiền rồi chở H1 quay về tỉnh Bình Phước, trên đường đi thì vứt bỏ 01 cây đội, 02 cây xà beng, 01 nạn ná thun. Đến ngày 30/5/2022, D1 chia cho H số tiền 120.000.000 đồng, H1 số tiền 67.000.000 đồng, số tiền còn lại D1 giữ tiêu xài hết Đối với H, sau khi được chia số tiền 120.000.000 đồng, H chia lại cho C1 số tiền 40.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 02 CT-VK -P3 ngày 09 tháng 02 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H; Nguyễn Đình D1; Lê Hữu H1 và Mai Thị C1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2023/HS-ST ngày 16/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã tuyên xử:

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H, Nguyễn Đình D1 (Dũng V), Lê Hữu H1 (H) và Mai Thị C1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2 Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51;

điểm a khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11-10-2022.

3 Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình D1 (Dũng V) 17 (mười bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

4 Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm a, h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Hữu H1 (H) 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14-10-2022.

5 Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52; Điều 54, 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Thị C1 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vào các ngày 17/6/2023, ngày 22/6/2023, ngày 27/6/2023 và ngày 29/6/2023, bị cáo Nguyễn Đình D1, Nguyễn Thị Ngọc H, Lê Hữu H1 (H) và Mai Thị C1 lần lượt có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 25/10/2023, bị cáo Nguyễn Đình D1 rút toàn bộ kháng cáo.

Ngày 05/12/2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm số 65/2023/HSPT-QĐ đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đình D1.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H, Lê Hữu H1 (H) và Mai Thị C1 đều thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu nhưng xin ội đồng xét xử xem xét lại giá trị tài sản chiếm đoạt để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo do các bị cáo không biết số tiền bị cáo D1 lấy là bao nhiêu.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H và bị cáo Lê Hữu H1 (H) là Luật sư Nguyễn Văn T1 trình bày: Thống nhất về tội danh mà Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo. Về hình phạt, mặc dù tại cấp phúc thẩm các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nhưng xét về vai trò đồng phạm thì 02 bị cáo H và H1 chỉ giữ vai trò giúp sức cho bị cáo D1, các bị cáo không biết số tiền D1 chiếm đoạt là bao nhiêu mà chỉ được chia theo tỷ lệ, hưởng lợi hạn chế hơn D1 (H1 chỉ được chia 67 triệu, H 80 triệu) trong khi số tiền D1 khai trộm được là hơn 1,3 tỷ đồng nhưng mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo H và bị cáo H1 lại gần bằng mức hình phạt của D1 là chưa hợp lý Do đ , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho 02 bị cáo H và bị cáo H1.

Người bào chữa cho bị cáo Mai Thị C1 là Luật sư Đinh Yến N trình bày: Về tội danh, Luật sư thống nhất như bản án sơ thẩm đã quy kết. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vai trò của bị cáo C1 trong vụ án chỉ là người giúp sức cho các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị cáo có hoàn cảnh kh khăn, đang nuôi 3 con nhỏ; quá trình giải quyết vụ án, bị cáo rất thành khẩn, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã đầu thú và hoàn trả số tiền hưởng lợi, để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo C1.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Về hình phạt: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H 16 năm tù, Lê Hữu H1 (H) 14 năm tù, Mai Thị C1 08 năm tù là c căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với kết luận giám định, vật chứng thu giữ và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được xét hỏi công khai tại phiên tòa Như vậy, Hội đồng xét xử c đủ cơ sở kết luận:

Để có tiền trả nợ và tiêu xài, H kêu Mai Thị C1 (là cháu dâu của H) tìm nhà có tài sản để trộm chia nhau tiêu xài; Chi biết rõ gia đình chị Nguyễn Thị Hồng T3 làm nghề mổ, bán thịt lợn có nhiều tiền, chiều thứ sáu và chủ nhật hàng tuần đưa đón con đi học tại thành phố T nên chỉ nhà cho H; H rủ Nguyễn Đình D1, D1 rủ Lê Hữu H1 (H) vào ngày 29/5/2022 (chủ nhật) sẽ đến nhà chị T3 để trộm tài sản.

Khoảng 11 giờ ngày 29/5/2022, D1 chuẩn bị 02 cây xà beng và điều khiển xe chở H1 đến xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh để gặp H; lúc này, H điện thoại kêu Chi kiểm tra chị T3 có ở nhà hay không, sau đ C1 điện thoại thông báo cho H biết chị T3 không có ở nhà. H mượn xe mô tô của chị ruột là Nguyễn Thị L2 (chồng là ông Trần Văn N2) dẫn đường cho D1 và H1 đến nhà chị T3.

Khi đến nhà chị T3, D1 kêu H đến quán nước mía đối diện nhà chị T3 để cảnh giới; D1 chở H1 đi mua 01 cây đội (làm công cụ cạy phá) và 01 cây ná thun Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, H1 và D1 quay lại giấu xe tại con hẻm cách nhà chị T3 khoảng 50 mét, cả hai đi bộ đến nhà chị T3 dùng cây đội bẻ 02 song sắt của sổ đột nhập vào nhà; D1 rút dây điện camera cùng với H1 vào bên trong phòng ngủ của vợ chồng chị T3 thì phát hiện có 01 két sắt và 02 con heo đất màu đỏ. D1 và H1 đập 02 con heo đất lấy số tiền 450.000.000 đồng, sử dụng xà beng cạy cửa két sắt lấy số tiền 935.000.000 đồng và 01 đôi bông tai vàng 24K, trọng lượng 01 chỉ. Sau đ , D1 điện thoại báo cho H biết đã trộm được tài sản, hẹn H khoảng 02 ngày nữa đến chia tiền. Trên đường đi về D1 vứt bỏ 01 cây đội, 02 cây xà beng, 01 nạn ná thun Đến ngày 30/5/2022, D1 chia cho H số tiền 120.000.000 đồng, H1 số tiền 67.000.000 đồng, số tiền còn lại D1 giữ tiêu xài hết. H chia cho C1 số tiền 40.000.000 đồng.

[3]. Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật hình sự là c căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội; trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; các bị cáo thực hiện tội phạm một cách táo bạo, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân; gây mất trật tự trị an tại địa phương; cần xử lý nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa.

[5]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo.

Các bị cáo kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại giá trị tài sản chiếm đoạt vì bị cáo D1 là người thực hiện hành vi chỉ thừa nhận lấy của bị hại số tiền 380.000.000 đồng và 01 đôi bông tai, từ đ xin giảm nhẹ hình phạt.

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo D1 chỉ thừa nhận trộm cắp của bị hại số tiền 380.000.000 đồng và 01 đôi bông tai. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của các bị cáo, bị hại, biên bản xác minh và các tài liệu chứng cứ khác c đủ căn cứ xác định các bị cáo đã trộm cắp tài sản trị giá là 1.390.360.000 đồng. Bị cáo D1 cũng thống nhất với giá trị tài sản chiếm đoạt này thể hiện qua việc bị cáo tự nguyện rút đơn kháng cáo Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định tổng giá trị tài sản mà các bị cáo trộm cắp của bị hại là 1.390.360.000 đồng là có căn cứ. Các bị cáo tiếp nhận ý chí của nhau và hỗ trợ cho bị cáo D1 trong việc trộm cắp tài sản nên phải cùng chịu trách nhiệm hình sự về số tiền bị cáo D1 chiếm đoạt.

Cấp sơ thẩm khi lượng hình đã xem xét vai trò của từng bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội Xác định các bị cáo có tình tiết tăng nặng “phạm tội có tổ chức” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, riêng bị cáo H1 thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên phải chịu thêm tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự Đồng thời, đã áp dụng đầy đủ cho các bị cáo các tình tiết giảm nhẹ như: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã ra đầu thú, được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; riêng bị cáo C1 đã nộp lại 40.000.000 đồng để bồi thường lại cho bị hại nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo H có thành tích trong phong trào xây dựng nông thôn mới được Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T4 giấy khen là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo C1, từ đ , xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H 16 năm tù, Lê Hữu H1 (H) 14 năm tù, Mai Thị C1 08 năm tù là đúng quy định pháp luật, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do các bị cáo thực hiện cũng như vai trò phạm tội, nhân thân của các bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ mới để Hội đồng xét xử xem xét. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[6]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã c hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7]. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H, Lê Hữu H1 (H), Mai Thị C1 phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H, Lê Hữu H1 (H) và Mai Thị C1. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2023/HSST ngày 16 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H, Lê Hữu H1 (H) và Mai Thị C1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H 16 (mười sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/10/2022.

3. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm a, h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Hữu H1 (H) 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/10/2022.

4. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H, Lê Hữu H1 (H) để đảm bảo thi hành án.

5. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52; Điều 54, Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Thị C1 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

7. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H, Lê Hữu H1 (H), Mai Thị C1 mỗi bị cáo phải chịu 200 000đ (hai trăm nghìn đồng).

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 921/2023/HS-PT

Số hiệu:921/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về